Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý thức giải thoát

10/04/201313:04(Xem: 6460)
Ý thức giải thoát

lotus_7
Ý thức giải thoát

Thích Phổ Huân
---o0o---

Một dòng sống tiếp theo một dòng sống

Một con người nhưng mang vạn lớp hình

Một là nhiều nhưng chỉ một tánh linh

Một là một trong sáu đường sinh tử

Thế giới mênh mông trong vũ trụ, bằng cái nhìn của chư đại Bồ Tát chỉ là ảnh chớp chập chờn nửa hiện nửa ẩn trong dòng thức sinh diệt của chúng sanh. Thế giới loài vật vô minh ngây dại chẳng hiểu biết nên sống mà như chết. Cái chết đến với chúng thật mau mà cũng thật dài; thật dài vì cứ mãi sanh ra để mà chết, chẳng ý thức kinh sợ ngừng lại.

Thế giới loài người cũng vô minh ngờ ngạc - tạo gây ân oán kết chặt thương yêu, bám vào sự sống tưởng như bất tử, rồi tử sinh tiếp nối, sống chết chập chùng nay sanh ở đây mai sanh ở kia - ý thức rối loạn dệt thành vọng tưởng thế giới luân hồi; trở vào cảnh vật trở ra cảnh người chu kỳ tiếp mãi.

Thật ra thế giới loài người không đến nổi quá lu mờ ô nhiễm. Thế giới trong vũ trụ muôn hình muôn ảnh, hiện đủ hình tướng chúng sanh, hiện đủ cảnh tượng lạ lùng sai biệt, nhưng thế giới trung-hòa định hướng đến tương lai giải thoát vẫn là thế giới loài người. Do thế giới loài người dung chứa hai mặt, chịu đựng và hưởng thụ - chịu đựng khắc nghiệt của môi trường thiên nhiên vật chất khi tiếp xúc với thể xác vật chất. Hưởng thụ vật chất từ thể chất con người và thiên nhiên. Trong việc chịu đựng phản kháng với ý thức tìm vui, hưởng thụ con người đã tư duy được con người là chánh nhân khắc chế cưỡng lại được những gì bất an, những gì khó chịu đựng. Nhưng con người đôi khi mâu thuẫn, tạo nên những bất an cho con người trong khi tìm vui lánh khổ - bằng những phương tiện sinh ra nỗi khổ khác cho muôn loài, trong đó có loài người. Một thí dụ nhỏ: Muốn giữ hoa màu thực vật tốt tươi, bao nhiêu chất hóa học được thải ra để giết côn trùng (pesticides), nhưng côn trùng là chúng sanh tự nhiên hài hòa môi sinh thiên nhiên (natural environment) thực vật và sinh vật - nên khi côn trùng bị diệt, đất đai cũng khó mà chuyển động tự nhiên trở thành phì nhiêu cho cây cỏ nẩy nở. Thêm nữa thực vật được tẩy sạch nuôi nấng bằng chất thuốc hóa học thì con người tiêu dùng sẽ chẳng thể tự nhiên, nên sanh ra bệnh hoạn. Vậy cả ba thành phần: con người, thực vật, côn trùng (nói chung sinh vật) tất cả ba thành phần chúng sinh hữu tình, vô tình này (có tình thức và không có tình thức) đều bị tổn thương.

Thế giới loài người tuy vẫn đầy vô minh vây bủa, sống trong mâu thuẫn tìm vui rồi tạo khổ, nhưng thế giới loài người vẫn còn tốt hơn nhiều thế giới khác. Trước mắt chúng ta dễ thấy nhất là thế giới loài vật; loài vật chẳng có ý thức chi, chúng chỉ tuân thủ theo sức mạnh của bất cứ sự việc gì áp chế lên chúng. Con người không như vậy, dù con người biết rằng mình đang bị áp chế bởi vô minh - nhưng biết được mình đang bị áp chế là lối thoát cho tương lai. Thế nên thế giới con người là thế giới tương lai giải thoát. Nhưng thời kỳ nhận thức giải thoát chỉ xuất hiện khi có cuộc cách mạng của một siêu nhân, khai phóng được ý thức, và thành tựu ý thức giải thoát cụ thể, làm mô hình cho người đi theo. Thời kỳ như vậy không thể dễ gặp, dễ nhận thức và dễ thực hành.

Hiện thế giới loài người đang sống trong ý thức tương lai giải thoát, quả thật may mắn cho chúng ta. Là vì cách đây hơn 2500 năm tại xứ Ấn Độ, xuất hiện một con người. Người ấy dù mang địa vị cao trọng trong Hoàng gia, nhưng từ chối tất cả để đi tìm ánh sáng giải thoát hạnh phúc chân thật, mà không phải là hạnh phúc có rồi mất đó như thế gian. Cuối cùng người đã toại nguyện, từ đó người được gọi là Phật nghĩa là một con người được mến mộ nhất trong ý nghĩa giải thoát hoàn toàn. Người được thế gian ca tụng là cao đẹp tuyệt vời, không có gì trên thế gian này có thể diễn nói được. Thậm chí súc sanh cũng cảm nhận được cái đẹp cao thượng ấy, nên chúng hay thích thú tìm cách gần gũi Ngài. Nếu giả như Ngài dành nhiều thời gian lưu sống trong rừng thì loài vật sẽ được giải thoát nhiều lắm. Đó là nguyên nhân chúng ta có được nhận thức này.

Phật là kết quả của ý thức thoát khổ hướng đến giải thoát, chúng ta hiện cũng ý thức thoát khổ hướng đến giải thoát, tuy nhiên chúng ta chỉ là nhân vì chưa giải thoát, cho nên chúng ta được xem, đang trong một thế giới ý thức tương lai giải thoát. Nhưng loài người chúng ta đã có bao nhiêu người ý thức điều này. Ngay như thời Phật tại thế đã có nhiều người không biết đến Ngài, cả đến chưa từng nghe tên. Vậy số người đó dù sống trong thời Ngài vẫn còn là vô minh. Vô minh chỉ cho sự không may mắn nhận hiểu sự vật vô thường, các pháp (sự việc, sự vật) vô ngã (giả tạm, không có thật thể), để từ đó không hiểu đời là một vở kịch giả mà tưởng thiệt, biến thành chấp trước đảo điên (Đây là đơn giản một phần nghĩa của vô minh).

Người sống trong thời Phật mà vô minh, thật là tiếc uổng, thật thương cho họ (có thể chúng ta đã là người trong họ) - riêng người đời nay vô minh thì chẳng gì lạ, bởi cách Phật đã hơn 2500 năm. Ngược lại người đời nay mà ý thức giải thoát được thì quả là một điều hiếm quý (chúng ta đang là người ý thức, thật mừng cho chúng ta). Nhưng ý thức giải thoát phải là cụ thể mới có kết quả.

Nhìn lại thế giới loài vật, làm sao chúng có được ý thức giải thoát? Thấy đó mà sợ! Nhìn thêm nữa, kể cả loài người cũng đâu có bao nhiêu người hướng đến ý thức giải thoát! Rồi hướng đến thì có mấy người thực hành?

Có ý thức hướng đến đã là tốt rồi! Việc thực hành nói lên kết quả ý thức thấm nhuần sâu đậm. Chúng ta cần nên tư duy quán xét thế giới chung quanh rõ nét hơn để mong được thấm nhuần.

Trước hết là sự may mắn được làm người. Làm người không phải việc đơn giản, không phải vì thấy hằng ngày có cả vạn em bé được sanh ra, không phải thấy thế giới đang báo động nạn nhân mãn... tất cả sự việc thấy như vậy, vẫn không thể biện hộ bác bỏ lẽ hiếm quý được sanh ra làm người. Chúng ta thử nhìn các loại chúng sinh không phải là người xem sao! Tất cả chúng sinh đó đều có tánh linh, đều có hiểu biết (hiểu biết giới hạn của từng loài) và đặc tính chung nhất là biết khổ và vui (ham sống sợ chết). Nhưng dù hiểu biết khổ vui, chúng không thể nào ý thức được chúng đang khổ đang vui, nghĩa là cuộc đời bản thân của chúng. Đây là vấn đề quan trọng khác biệt với loài người. Nếu loài vật ý thức được khổ vui thì chúng đã như loài người không khác. Chúng không thể tư duy suy niệm cuộc đời. Làm gì chúng được như thế! Nếu chúng được vậy, chắc chúng cũng đã có việc xuất gia tu niệm. Nhưng chúng ta cũng nghe qua những chuyện, súc sanh biết tu niệm và chết vãng sanh. Dù thật như vậy nhưng đây là cảm nhận được ân điển, từ lực bi tâm của các vị chân tu cũng như gieo duyên vào cảnh Già lam thanh tịnh, nên khi bỏ xác đã được sức gia bị của chư vị Bồ Tát Thiện thần mà hiện tướng nhẹ nhàng ra đi, điều này không phải ý thức giải thoát để chuyển thức tu hành. Tuy nhiên sự kiện như thế cảnh tỉnh giúp chúng ta là loài hiếm quý, ý thức lo tu niệm hơn. Thế giới súc sanh với những chuyện như trên quả là không tưởng.

Về số lượng của loài vật thì không thể nghĩ bàn - Có ai lại biết trong một giây, một phút, một giờ một ngày có bao nhiêu loài vật súc sanh lớn nhỏ ra đời ? Có ai bỏ công quan sát thống kê! Mà có muốn cũng làm không nổi. Các loài sống trên đất, dưới nước, trên cây, và dưới mặt đất nữa. Trong đó bao gồm thai sanh, thấp sanh, noản sanh và khó mà nhận biết là loài hóa sanh. Vậy làm sao biết được lượng của chúng sanh, do vậy mà ta thường nghe kinh Phật nói chúng sanh số nhiều đến vô lượng không thể nghĩ bàn (tính cả loài người).

Đó là việc quan sát thế giới chúng sanh vô cùng, và trong đó con người là thế giới chúng sanh cao quý nhất. Chúng sanh nhiều vô lượng vậy mà ta nay đã ở vào thế giới người, tất nhiên ta hẳn vượt xa chúng sanh khác nhiều lắm, tuy vậy con người vẫn còn nằm trong sáu cõi (Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), vẫn luôn luôn bị quay chuyển trong vòng phước báo nghiệp lực. Theo lời kinh dạy, con người còn đủ nhân duyên thù thắng hơn cả cõi trời, nếu con người sống trong thời còn Phật pháp biết tu niệm. Và vậy điều chúng ta suy niệm về ý thức giải thoát hiện nay quả là đúng; đó cũng là phần nhận định tiếp theo, sau khi nhìn nhận sự may mắn làm người.

Từ đây suy niệm, cho rằng quả địa cầu đây là thế giới loài người thì không hẳn đúng, vì trong đó có không biết bao nhiêu thế giới chúng sanh khác. Ngày xưa Phật thường cân nhắc về việc cẩn thận tránh gây thương tổn đến các chúng sanh nhỏ nhít sống gần gũi chung quanh con người. Điều này chỉ có bậc Đại giác mới từ bi dạy rõ như vậy, và cho đến nay việc thấy càng rõ hơn.

Hiện thời hoạt động sinh hoạt của con người thật quả vô tình tác động rất nhiều đến thế giới loài vật, do đó chúng ta phải dùng mọi cách sám hối việc làm của mình để có thể giảm nhẹ tội nghiệp sát sanh mà mình vô tình hay cố ý gây ra.

Nhận rõ thế giới loài người dễ tạo tội lại càng ý thức hướng đến giải thoát, và chỉ có ý thức hướng đến giải thoát mới là sám hối rốt ráo. Thử nghĩ một khu rừng nhỏ chỉ một ngàn thước vuông được khai phá, như vậy trong đó ai biết có bao nhiêu loài chúng sanh đang sống. Con người vì không có thiên nhãn nên tự nhiên hành động, do đó không thấy chúng sanh khác đang đau khổ. Nhưng nếu con người không biết sám hối tìm cách làm thiện, giảm chế việc có thể làm, để quân bình môi sinh cuộc sống thì thế giới vật chất càng ngày tưởng phát triển mà khó thể sống được vì thiên nhiên càng mất đi - cũng như tinh thần tâm linh suy giảm theo, một khi vật chất quá cường thịnh sung mãn.

Tất nhiên chúng ta nên tri ân chư vị tiền nhân, đã có công tạo lập mọi phương tiện cho người sau. Nhưng tiền nhân chúng ta cũng không thể tránh được việc tạo tội, thì chúng ta vừa biết ơn, vừa ý thức giải thoát để hồi hướng công đức của mình đến các bậc tiền nhân.

Thực tế của đền ơn, là sống không phung phí, không tiêu pha khí lực vào các việc tổn thương đến môi trường nhân sinh và ảnh hưởng đến loài vật chung quanh. Vượt xa hơn nữa bằng ý thức hướng đến giải thoát quay ra khỏi chu kỳ sinh tử của người và vật, của chúng sinh hữu tình và vô tình.

Sống ý thức hướng đến giải thoát, giúp ta thấy rõ khoảng cách giữa các chúng sanh hữu tình qua hình thù người và vật thật sát gần nhau. Và từ muôn kiếp trong luân hồi lục đạo, tình thức của một chúng sanh chưa giác tỉnh hẳn phải lên xuống ra vào nhiều cảnh tối tăm. Duy chỉ có các bậc giác ngộ mới ngưng lại được mê thức vọng tình quay ra khỏi vòng sinh tử. Và vậy hướng đến giải thoát là chuyển vọng thức ra chân thức (trí giác) bằng cái nhìn từ bi quán chiếu đến muôn loài muôn vật đang cộng sinh cộng hưởng trên cõi sống này. Từ đây xây dựng được đời sống trên căn bản của giới (precept) mà người Phật tử đã lãnh thọ. Như thế đời sống của con người sẽ an lạc hơn và tương lai y báo tươi đẹp sẽ hiện ra ngay cõi Ta Bà, để tương lai hướng về Phật độ, vậy đó là cụ thể, thế giới con người là thế giới hướng về giải thoát.

Nam Mô A Di Đà Phật

Thích Phổ Huân

--- o0o ---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6107)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6291)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4693)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8595)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5886)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 6056)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17948)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5168)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5790)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8980)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567