Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự phát triển của Tịnh Độ tông

27/03/201705:56(Xem: 4673)
Sự phát triển của Tịnh Độ tông

Phat Di Da
Sự phát triển của Tịnh Độ tông

 

Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu

được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, 

Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà.

 

Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa 

được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng

Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.

 

Tịnh độ tông ngày nay là trường phái có nhiều tín đồ nhất ở Trung quốc và Nhật bản. Theo thống 

kê chánh thức năm 1980, phái thiền Tào Động đứng thứ Hai sau Tịnh độ Chơn tông ở Nhật về số 

tín đồ đông đảo nhất.

 

Trong thời kì trước Tổ Huệ Viễn (344-416), Tịnh độ chỉ là pháp môn nhiệm ý trong Phật giáo. 

Ngài Huệ Viễn đã biến môn Tịnh độ thành một hoạt động độc lập, sau đó trở thành một tông 

phái Phật giáo mới khi ngài thành lập Bạch Liên xã năm 402. Về sau, ngài Đàm Loan (476-542)

tổ chức lại Tịnh độ tông và được Nhật bản xem là  Sơ Tổ của Tịnh độ tông Trung quốc. Tông nầy 

nhấn mạnh đại nguyện của đức Phật A-di-đà, là đem tất cả những chúng sanh thành tín về cõi 

An Lạc của ngài - và tập trung sự thực hành trong việc niệm danh hiệu A-di-đà Phật. Câu niệm 

"Nam-mô A-di-đà Phật" (Chin: Nam-mo A-mi-to Fo) có nghĩa là "Kính lễ A-di-đà Phật". Bởi vì 

tông nầy trông cậy vào sự cứu độ của đức A-di-đà Phật, nên được gọi là "Dị đạo" (đường dễ). 

tiếng Trung quốc là "T'zu-li" và tiếng Nhật là "Tariki". Kinh điển của tông là A-di-đà Kinh và

Quán Kinh (tức Quán Vô Lượng thọ Kinh). Tông nầy truyền thừa qua nhiều vị Tổ trong đó có

Liên Trì (562-645), Thiện Đạo (613-681) và T'zu-min (680-748). Nhờ cách thực hành giản dị,

Tịnh độ tông có khả năng vượt qua các giai đoạn suy thoái và giai đoạn bức hại Phật giáo từ

năm 845 - hơn tất cả các tông khác. Tịnh độ tông Nhật bản được Pháp Nhiên thượng nhơn

(1133-1212) thành lập, về sau cùng với nhánh tẻ Tịnh độ Chơn tông, vẫn là tông phái có nhiều

tín đồ nhất.

 

Mục tiêu của Tịnh Độ tông

 

Mục tiêu tức thời của môn Niệm Phật là tạo nghiệp lành và điều kiện cho sự vãng sanh Tịnh độ. 

Chân thành niệm Phật và khẩn thiết phát nguyện sanh về Tịnh độ là trung tâm của môn nầy. Tuy 

nhiên, cũng quan trọng là sự tu tập để đạt được "nhất tâm" và "an ổn tâm" - một đặc tính mang 

nhiều ý nghĩa, nhưng truyền thống tu viện cho là sự "tập trung tâm ý" hay là "đạt định". Dưới cái 

nhìn của trào lưu Tịnh độ chính thức, thì "đạt định"  là yếu tố cốt yếu và dấu ấn của sự thành công 

trong việc tạo nghiệp lành cần thiết cho sự vãng sanh.

 

Một số độc giả có thể nghĩ mục tiêu duy nhất của tín đồ Tịnh độ tông là được sanh về cõi An Lạc 

và Thanh tịnh của đức Phật A-di-đà...Nhưng thật ra, sự vãng sanh tự nó....không phải là mục tiêu, 

mà mục tiêu là đạt được giác ngộ trong trụ xứ A-di-đà, nơi có các điều kiện thuận tiện tuyệt vời 

để ta có thể sống đời Phật tử chân thật....Nếu ta có thể nói như thế, thì vãng sanh Tịnh độ chỉ là 

phương tiện cho một mục tiêu cao hơn, đối với bất cứ môn phái Phật giáo nào, đó là sự đắc ngộ 

và giải thoát...(D.T Suzuki, "Phật giáo Đông phương")

 

Tịnh độ Thực hành

 

Cách thực hành chánh yếu là niệm danh hiệu A-di-đà Phật, có hay không có quán tưởng đức Phật 

và cõi Tịnh độ.  Ba kinh chánh của Tịnh độ tông là 2 bộ kinh A-di-đà (A-di đà kinh + Vô Lượng Thọ 

kinh) và bộ Quán Vô Lương Thọ kinh (gọi tắt Quán Kinh). Niệm danh hiệu Phật là nhằm kiểm soát 

tâm ý và tạo điều kiện cho sự vãng sanh. Người niệm Phật thường tự đặt cho mình một số lượng 

(thường là rất lớn) câu niệm Phật mỗi ngày. Có thể niệm lớn tiếng hay niệm thầm, có quán Phật 

hay không cũng được. Đây là các thực hành thông dụng nhứt. Ít được dùng hơn là cách quán tưởng 

Phật A-di-đà hay cõi Tịnh độ theo 16 cách quán khác nhau được dạy trong Quán Kinh, đặc biệt là 

cách quán thứ 16. Phương pháp cao nhất là quán Phật A-di-đà không khác với tánh Phật của mình, 

(gọi là Di-đà Tự tánh) tuy nhiên phương pháp nầy đễ bị lạc qua Thiền tông bởi vì sự vãng sanh có thể 

trở thành thứ yếu. Tóm lại, niệm Phật hay quán Phật là những điều kiện bên ngoài, tin Phật (Tin Sâu) 

và tha thiết cầu vãng sanh (Nguyện Thiết) là điều kiện bên trong. Chỉ khi nào có đủ hai điều kiện bên 

trong nầy, hành giả mới có thể vãng sanh Tịnh độ.

 

Trong pháp môn Tịnh độ, bất cứ cách thực hành chánh đáng nào cũng đều có giá trị, miễn là công 

đức được hồi hướng cho sự vãng sanh (của mình và tất cả chúng sanh). Tuy nhiên, lí tưởng nhất, 

cách thực hành chánh phải là niệm danh hiệu Phật. Nếu người tu thực hành nhiều cách khác nhau, 

không coi pháp nào là chánh, thì công phu mất tập trung và dễ quên đi mục tiêu chánh của mình 

là vãng sanh Tịnh độ. Các môn tu phụ trợ có thể kể là: tu giới, trì chú, tụng kinh, v.v...

 

Ba yếu tố chánh của môn Tịnh độ là Tín, Nguyện và Hành. Người tu Tịnh trước hết phải tin chắc có 

cõi Tịnh độ và đức Phật A-di-đà luôn luôn dang hai tay bảo hộ, sẵn sàng hoan nghinh và hướng dẫn 

về Tịnh độ bất cứ chúng sanh nào tha thiết mong cầu sự cứu độ của Ngài. Đây gọi là Tín hay Tin Sâu, 

điều kiện quan trọng nhất. Đã có đức tin, hành giả cần khẩn thiết mong cầu thoát khỏi cõi Ta-bà đầy 

đau khổ và chướng ngại, để được sanh về cõi Tịnh độ đầy thanh tịnh và trang nghiêm. Đây gọi là 

Nguyện Thiết. Sau khi có nguyện vững chắc rồi, hành giả phải cố gắng niệm danh hiệu A-di-đà đến 

mức tâm mình với tâm A-di-đà là một (điều kiện lí tưởng để vãng sanh Thượng phẩm). Đây gọi là 

Hạnh hay Hành Chuyên. Ba điều kiện Tin Sâu, Nguyện thiết và Hành Chuyên gọi chung là "Tư lương 

của người tu Tịnh độ". Tin Sâu và Nguyện Thiết là hai điều kiện thiết yếu, nếu không có đủ thì sự 

vãng sanh không có hi vọng. Phải Tin Sâu mới có Nguyện Thiết. Nhưng Tin Sâu và Nguyện Thiết mà 

thiếu Thực hành thì rỗng, khó được vãng sanh hay chỉ vãng sanh ở phẩm vị thấp. Như một vị đại sư 

đã nói: "Vãng sanh hay không là do Tín với Nguyện, phẩm vị cao hay thấp là do công phu tu hành" 

(Xem thêm "Tư lương của người tu Tịnh độ")

 

Từ thời nhà Đường, chúng ta có nghe nói "Hành lang Tịnh độ" ở trong khuôn viên của các chùa lớn 

hay đại tu viện, là nơi các khất sĩ Tịnh độ tụ họp thành nhóm để cùng nhau thực hành hay học tâp 

Tịnh độ. Những thế kỉ sau đó, các đại sư Tịnh độ có uy tín đã tìm cách tổ chức những tu viện riêng 

theo phương hướng Tịnh độ. Ngài Châu Hoằng (Liên Trì đại sư, 1535-1615) vào thời Minh, và ngài

Ấn Quang đại sư (1861-1940) thời Dân Quốc là hai nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng trên hình thức

các tu viện Tịnh độ thời nay. Cả hai vị có chương trình qui mô nhằm áp dụng cách cấu trúc và các 

qui luật cổ truyền về tu viện cho những nhu cầu riêng của Tịnh độ, như là xây các Niệm Phật đường 

theo khuôn mẫu của các Thiền đường. Ngoài ra, các Tăng Ni Tịnh độ cũng có hình thức nhập tu riêng 

gọi là Phật thất (Bảy ngày niệm Phật) mô phỏng theo Bảy Ngày Tỉnh Thức của Thiền tông, nhưng ở

trong khung cảnh tu viện khác hơn.

 

Các đặc điểm của Tịnh độ tông

 

Tịnh độ tông hay Liên tông là tông phái lâu đời nhất trong các tông phái Phật giáo ở Đông Á. 

Ngoài ảnh hưởng của số tín đồ đông đảo, Tịnh độ tông sau cùng đã thâm nhập ở mức đáng 

kể vào các tông phái khác. Không có yếu tố nầy, có lẽ Tịnh độ tông khó có thể giữ vững đuợc

thế mạnh trong lòng nhân dân Trung quốc, sau thời kì của Tổ Huệ Viễn.

 

Các đại sư cao cấp về Tam tạng thường nói rằng: "Phương pháp niệm danh hiệu Phật bao trùm 

cả Thiền, Giáo, Luật và Mật tông. Tại sao niệm Phật có thể bao gồm cả bốn tông? Bởi vì trong 

khi niệm Phật, ta trừ được vọng tưởng và bám níu - đó là Thiền. Danh hiệu Phật A-di-đà bao 

gồm vô lượng diệu nghĩa, khi xướng lên thì đồng như tụng đọc giáo điển - đó là Giáo. Niệm 

danh hiệu tới mức thâm sâu trừ được ba nghiệp của Thân Khẩu Ý - đó là Giới. Danh hiệu của

A-di-đà Phật có công năng như câu thần chú, trừ được phiền não và sai quấy, cắt đứt ác nghiệp, 

thỏa lòng mong cầu và  chế ngự tà ma - đó là Mật.

 

Trong bộ luận về kinh Tịnh độ, ngài Châu Hoằng (Tổ thứ Tám Liên tông) xếp kinh Tịnh độ vào 

hàng Đốn giáo, cũng có đặc tính "Chung giáo" như kinh Pháp Hoa và tính Viên giáo như kinh 

Hoa Nghiêm. Gọi là Đốn giáo, ngài nói, bởi vì người tu được vãng sanh Cực Lạc ngay sau khi 

trông cậy vào danh hiệu đức Phật A-di-đà. Ngài Châu Hoằng cũng giải thích là tâm của người 

niệm Phật rốt ráo cũng được an ổn như như tâm vô niệm của người tu Thiền. Cũng như Hàn 

Sơn, ngài Châu Hoằng hiểu giáo lí Tịnh độ theo tinh thần Thiền tông, nhưng đồng thời cũng 

tuyên dương khía cạnh sùng tín của pháp môn Tịnh độ. Trong cả hai người, môn Tha lực qua 

sự cứu độ của đức Phật A-di-đà đã hòa chung với môn Tự lực giải thoát qua sự nỗ lực của 

bản thân.

 

Theo tài liệu: "Pure Land school của quyển "The Seeker's Glossary of Buddhism" (từ trang 377), USA 1998
Việt dịch: Thích Phước Thiệt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 4242)
Khổ khổ là một trong tam khổ [1]luôn xảy ra trong cõi Ta Bà này. Khổ là sự bất an, sự đau đớn, sự thống thiết, sự kêu gào, sự chịu đựng, sự bấn loạn, sự cay điếng, sự tan nát, sự chấn động, sự đả thương …
02/04/2013(Xem: 5360)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa). Vì pháp Duyên khởi là nguyên lý cơ bản và thiết yếu của sự giác ngộ. Đức Phật thành Phật là do Ngài chiêm nghiệm hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt của nguyên lý 12 Duyên khởi mà thành tựu. Trong kinh A-hàm đức Phật nói: "Thế nào là nguyên lý Duyên khởi? Nghĩa là do duyên với Vô minh mà Hành khởi sinh, dù Phật có ra đời hay không ra đời, nguyên lý ấy vẫn thường trú, vẫn an trú trong pháp giới.
02/04/2013(Xem: 6424)
Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó nhất là tu tại gia, cho nên có câu: Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. Ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ lại khó tu hơn một chút vì phải giữ lòng ngay thẳng, không gian manh lường cân tráo đấu; ở nhà lại khó hơn nữa vì bạn ác rủ rê làm ta dễ bị sa đọa.
02/04/2013(Xem: 20944)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa, giáo nghĩa ẩn số vô cùng cao thâm mầu nhiệm, không ngoài mục đích triển khai tri kiến của Phật để chúng sanh tiến tu đạo nghiệp sớm được chứng quả vô thượng bồ đề. Bộ kinh này được lưu truyền sâu rộng trong nhân gian, được nhiều thọ trì đọc tụng, được nhiều dịch giả phiên dịch ra nhiều thứ tiếng, và cũng được rất nhiều học giả nghiên cứu, chú thích, giảng giải, yếu giải v.v...
01/04/2013(Xem: 4990)
Khi thấy được mọi sự trên thế gian này chẳng khác nào những vỏ chuối khô vất bỏ thì bạn sẽ không còn bị dao động, chán nản, và đau khổ trước vô vàn sự đến và đi của mọi sự vật trên thế gian -- dầu là vui hay buồn. Nhận thức được điều này bạn sẽ thong dong trên đường giải thoát.
01/04/2013(Xem: 4817)
Bức thông điệp đó là "Tứ Diệu đế" (Catvàriaryasatyàni), Bốn Sự thật (The truth), bốn Chân lý về con người và sự hiện hữu của con người. Nó cũng là con đường biện chứng thực tại mà qua đó con người có thể vươn đến một đời sống hạnh phúc chân thực ngay tại cuộc đời này.
29/03/2013(Xem: 5983)
Phật giáo là ánh sáng. Ánh sáng của Phật giáo là từ bi, trí tuệ. Ánh sáng ấy soi rọi lòng người, phá tan màn vô minh, vị kỷ, tật đố, tham sân si, để cùng nhau tạo lấy một cuộc sống an vui hạnh phúc và xây dựng đức tính tốt đẹp: đức tính vô ngã vị tha ...
29/03/2013(Xem: 6171)
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy có hai cửa vào đạo là Chân thật môn và Phương tiện môn. Chân thật môn là con đường chính, nhưng chỉ có Phật mới đi vào con đường này được ...
24/03/2013(Xem: 6081)
Theo quan điểm siêu hình thì Niết bàn là giải thoát khỏi đau khổ. Theo quan điểm tâm lý học thì Niết bàn là xóa bỏ tự ngã. Theo quan điểm đạo đức thì Niết bàn là diệt tham, sân và si. Quá trình sinh tử này tiếp tục vô tận cho đến khi chuyển hóa thành cảnh giới Niết bàn: cứu cánh của các Phật tử. Danh từ Niết bàn trong Pàli hợp thành do Ni và bàna. Ni là một yếu tố phủ định và bàna nghĩa là dục vọng hay khát ái. Chính vì ly khai khỏi khát ái, hay bàna, dục vọng nên nó được gọi là Niết bàn. Niết bàn theo nghĩa đen là không trói buộc.
23/03/2013(Xem: 5005)
Xưa nay có một số người hiểu lầm cho rằng Niết-bàn là hư vô, hủy diệt, hay là cái chết. Nếu hiểu như thế thì không đúng với tinh thần kinh điển Phật giáo. (Trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 180, mục Chuyện Đông Chuyện Tây tr. 57, ông An Chi có trả lời một độc giả về xuất xứ của từ Niết-bàn, nhưng về ý nghĩa, ông muốn độc giả tự tìm hiểu lấy. Nhân đây, chúng tôi xin góp ý về cách lãnh hội khái niệm Niết-bàn theo kinh điển Phật giáo, để giúp độc giả nào muốn tìm hiểu thêm một từ ngữ khá hàm súc và thường bị ngộ nhận này).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]