Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 08: Thuận hạnh và nghịch hạnh

14/12/201206:20(Xem: 5644)
Chương 08: Thuận hạnh và nghịch hạnh

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 8
Thuận hạnh và nghịch hạnh


Chúng ta đọc trong kinh Đại thừa thường thấy các Bồ-tát thị hiện ở thế gian có nhiều hạnh không giống nhau. Có vị thị hiện tùy thuận hạnh pháp tính thì chẳng có vấn đề gì để nói, chúng ta không nghi ngờ và rất tôn trọng, làm theo lời các ngài dạy. Nhưng cũng có vị thị hiện tùy thuận nghịch hạnh làm cho chúng ta khó mà phân biệt được. Điều này chúngta không thể không lưu ý.

Bồ-tát thị hiện nghịch hạnh như phá giới, cố ý làm những việc tội ác.Các ngài thị hiện nhất định có nhân duyên đặc biệt để độ một số đối tượng đặc biệt không phải khinh suất tùy tiện thị hiện ở trong đám ngườibình thường; nếu như chúng ta muốn biết rõ việc này thì cần phải có trítuệ.

Những vị Bồ-tát thị hiện này từ xưa đến nay, chúng ta thường nghe nóiđến; nếu có cơ duyên cũng có thể gặp được. Liên quan đến điều này, Đức Phật có dạy đặc biệt cho những trường hợp này. Ngài nêu ra thí dụ như trong kinh Hoa nghiêm, đồng tử Thiện Tài tham học với năm mươi ba vị Bồ-tát thì thấy có những vị tùy thuận phiền não. Những Bồ-tát này,Đức Phật gọi là Bồ-tát Huệ hạnh, chẳng phải bồ-tát Sơ học. Bồ-tát Sơ học không có năng lực như thế. Vì sao? Vì bồ-tát Sơ học chưa đoạn hết tập khí tham, sân, si, mạn. Nếu như chúng ta tạo các ác nghiệp thì nhất định đọa trong ba đường ác.

Bồ-tát Huệ hạnh là người như thế nào? Trong kinh Kim cangnói Bồ-tát phá bốn tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọgiả tướng, và bốn kiến là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến và thọ giả kiến, Bồ-tát hoàn toàn đoạn sạch. Đây là người như thế nào? Trong kinh Đại thừa thường nói là pháp thân Đại sĩ, không giống người bình thường. Bồ-tát thị hiện các loại ác hạnh, nhưng trong tâm các ngài khôngcó, vì độ chúng sinh nên các ngài khai mở cửa phương tiện, chẳng chút vướng bận. Tâm của các ngài thanh tịnh, chân thật không dính chút bụi trần nên các ngài mới có bản lĩnh như thế.

Phần đông người Trung Quốc đều biết xưa kia có trưởng lão Tế Công. Chúng ta thấy ngài hành trì như người không giữ giới luật, cũng không giữ thanh quy chốn thiền môn; đặc biệt lại thích ăn thịt chó. Sự thật cótrưởng lão Tế Công này nhưng không giống nhân vật viết trong tiểu thuyết, tiểu thuyết viết không chịu trách nhiệm. Vậy ngài có làm những việc như thế không? Có. Trong Cao tăng truyệncó ghi chép sự thực. Ngài ăn thịt chó, uống rượu. Truyện Tế Công trong Cao tăng truyệnrất dài, dài hơn truyện ký của pháp sư khác hình như có bốn, năm quyển,đó là sự thật, không phải tiểu thuyết; ghi chép lại sự thật cuộc sống của ngài. Ngài là A-la-hán ứng hóa, chẳng phải người phàm.

Đối tượng ngài độ là những chúng sinh mà các vị giữ quy củ trì giới, giảng kinh, niệm Phật không độ nổi. Ngài thành tựu vô lượng công đức, tâm ngài thanh tịnh chẳng bị phiền não trói buộc, ngài có bản lĩnh như vậy. Người như ngài, chúng ta học không được mà chỉ khâm phục, cung kính, ca ngợi. Nếu như chúng ta học theo ngài sẽ bị đọa vào ba đường ác,ngài không chịu trách nhiệm.

Thời cận đại, năm đầu Dân Quốc cũng xuất hiện một vị giống như trưởnglão Tế Công, đó là pháp sư Diệu Thiện ở chùa Kim Sơn, Trấn Giang, GiangTô. Mọi người gọi là “Phật sống Kim Sơn”. Hành động của pháp sư giống như ngài Tế Công đời Tống, sự thị hiện này là nghịch hạnh. Chúng ta thấyngài từ sáng đến tối chẳng có khóa tụng nào, xưa nay chẳng đọc kinh, cũng không tụng giới; suốt ngày, ngài chơi đùa cùng với nam, nữ cư sĩ, cùng ăn uống với họ. Việc gì cũng không màng đến.

Nhưng ngài khiến cho mọi người rất khâm phục, họ tôn xưng ngài là Phật sống và rất cung kính. Ngài mặc y phục mỏng manh, bốn mùa xuân, hạ,thu, đông đều chỉ mặc một bộ đồ; mùa đông không thấy lạnh; mùa hè khôngcũng thấy nóng, thật là kì lạ. Y phục của ngài cũng không giặt, cả đời chưa hề tắm giặt một lần, nhưng thân thể ngài vẫn không hôi, lại còn tỏara mùi thơm; đây không phải là người bình thường. Chúng ta học không được, đó là sự thật.

Xã hội ngày nay, có rất nhiều người mạo nhận mình là thánh nhân. Họ cũng không câu không thúc, nhưng bạn nhìn kỹ mùa đông họ có mặc áo len không? Nếu như mùa đông họ mặc y phục mỏng manh thì nhất định là thánh nhân thật; còn nếu mùa đông họ mặc áo len, e rằng không phải thánh nhân thật. Mùa hè họ có mặc áo len được không? Ăn uống có còn phân biệt không? Không phân biệt ngon, dở, sạch, dơ tất cả đều ăn mới là thánh nhân. Nếu như họ không có đủ những điều này thì họ mạo xưng rồi. Những người như vậy, chúng ta phải cẩn thận thì học Phật không bị họ lừa gạt.

Hình thức lừa gạt người rất nhiều, họ dùng lời nói để gạt người, viếtthành sách cũng gạt được người; cho nên chúng ta phải cẩn thận. Thời đại ngày nay, ngôn luận tự do, xuất bản tự do, chẳng có hạn chế, không giống như trước đây. Chúng ta thấy thời đại trước đời Thanh, chúng ta muốn xuất bản sách trong Phật giáo phải qua xét duyệt của quốc gia, không phải chúng ta tùy tiện lưu hành. Bậc cao tăng, đại đức thời đó xétduyệt không có vấn đề gì, mới dâng lên vua phê chuẩn; sau đó mới được in ấn lưu hành, không giống như ngày nay tự do in ấn.

Tự do có cái lợi của nó, nhưng bất lợi thì nhiều hơn, tà tri, tà kiếntràn ngập xã hội; nếu người không có trí tuệ hiểu rộng thì dễ bị họ mê hoặc; đây là khuyết điểm của tự do dân chủ. Ngày xưa, thời đại phong kiến, nhà vua thật sự bảo vệ tâm thanh tịnh cho nhân dân, bảo vệ bạn không bị ô nhiễm. Vua có trách nhiệm và sứ mệnh này.

Thời xưa ở Trung Quốc, những người làm quan chính vụ, cũng như chức thủ trưởng hành chính ngày nay; hoặc là huyện thị trưởng ở địa phương, họ cũng tuân thủ ba điều răn “làm vua, làm cha mẹ và làm thầy”. Đây chính là trách nhiệm và sứ mệnh của người làm quan chính vụ.

Vua là lãnh đạo nhân dân, còn người làm quan huyện, thị trưởng thì phải lãnh đạo dân chúng ở huyện thị của mình.

Quan làm cha mẹ là người làm quan phải đem tâm của bậc làm cha mẹ mà quan tâm dân chúng, nên gọi là “cha mẹ của dân”. Quan như cha mẹ, quan phải giúp cho nhân dân, làm cho cuộc sống của họ được tốt hơn.

Quan làm thầy giáo là quan phải hướng dẫn, giáo dục mọi người. Cho nên ba ba sứ mệnh này của quan chính vụ là vua, cha mẹ và thầy.

Ngày nay thời đại dân chủ không đề cập đến ba điều này. Thời đại dân chủ gọi quan chính vụ là đầy tớ của nhân dân. Bạn là người chủ, tôi là người đầy tớ. Bạn muốn tôi làm thế nào thì tôi làm thế ấy. Chúng ta nghĩthử xem, quan chính vụ phải làm cha mẹ của chúng ta thì tốt hơn? Hay làm đầy tớ thì tốt hơn? Cha mẹ quan tâm chúng ta tỉ mỉ chu đáo. Người giúp việc trong nhà bạn, chưa chắc gì chăm sóc bạn tốt. Cho nên có nhiềungười hỏi tôi: “Pháp sư! Thầy tán thành thời đại dân chủ, hay chế độ phong kiến?”. Tôi nói tán thành chế độ phong kiến, không tán thành thời đại dân chủ. Tôi biết cái hay, ưu điểm của chế độ phong kiến hơn dân chủnhiều mà điều tệ hại cũng ít hơn dân chủ. Nếu như các vị đọc kỹ lịch sửthì hiểu rõ, không còn cho rằng làm vua là được tự tư. Tôi nói thật, tựtư là cái hay của nhà vua; ở đâu vua cũng chú ý, chỗ nào vua cũng quan tâm cẩn thận lo cho dân được lợi ích; nếu như lơ là thì nhân dân sẽ nổi lên lật đổ nhà vua. Vì thế, vua phải nghĩ cách làm cho nhân dân ủng hộ. Ông ta phải làm một ông vua tốt thật sự lo cho đất nước, phục vụ nhân dân thì nhân dân mới ủng hộ, nhà vua mới có thể truyền ngôi nhiều đời, hay mười mấy đời, truyền mấy trăm năm; cho nên chế độ phong kiến không phải không có cái hay. Ngày nay nhiệm kỳ tổng thống là bốn năm, tôi cảm thấy không có trách nhiệm bằng vua.

Nói về bồ-tát Sơ học, Đức Phật răn dạy Bồ-tát Sơ học, chúng ta đều làBồ-tát Sơ học, việc quan trọng thứ nhất là phải biết tai họa của danh lợi, tuyệt đối không được đắm nhiễm. Nhưng danh lợi rất dễ mê hoặc người, có bao nhiêu người xả bỏ nó được? Nếu như chúng ta không quay đầulại được mà muốn đời này thành tựu thì rất khó.

Đức Phật dạy mọi người ít muốn, biết đủ; người ít ham muốn thì dễ biết đủ. Khi Đức Phật còn tại thế, mỗi ngày Ngài chỉ dùng vào bữa trưa. Chúng ta ngày ăn ba bữa no nê, mặc y phục ấm áp, có nhà ở để che mưa gió, đời sống vật chất đầy đủ, ít lo lắng, chuyên tâm tu đạo. Nếu như ham muốn lợi dưỡng nhiều thì nhất định tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi; tăng trưởng phiền não thì mất chánh niệm.

Đức Phật dạy tất cả thiện pháp, chẳng những chúng ta không làm được, thậm chí những ý nghĩa này chúng ta cũng không hiểu. Ngài dạy ruộng phước thù thắng, chúng ta không thể không hiểu. Ruộng phước thù thắng chính là tam học (giới, định, tuệ), sáu độ là bố thí, trì giới v.v…, và mười đại nguyện vương của bồ-tát Phổ Hiền. Tuy chúng ta nói được, nhưng trên thực tế chúng ta còn đang xem thường lời Phật dạy, không muốn làm, tự mình khởi tâm động niệm, làm việc gì đều tương ứng với ma. Như thế làm sao thành tựu được? Cho nên Phật dạy bồ-tát Sơ học, nhất định phải xa lìa danh lợi.

Giảng đến đây, tôi chợt nhớ đến đại sư Liên Trì. Đại sư là một trong bốn Đại sư ở cuối đời Minh, chấn hưng Phật pháp rất mạnh mẽ. Người đời sau, mỗi khi nhắc đến đại sư Liên Trì không ai mà không tôn kính, ngưỡngmộ. Chính Đại sư kể lại: Lúc còn rất trẻ, Đại sư tham học khắp nơi rất ngưỡng mộ một vị cao tăng lúc đó là Lão hòa thượng Biến Dung. Đại sư cung kính chí thành đi ba bước lạy một lạy, lạy đến trước mặt Hòa thượng, chí thành như thế mới thỉnh cầu được Lão hòa thượng chỉ dạy. Ngài dạy Đại sư chỉ một câu: “Ông hãy nhớ kỹ đừng để bị danh lợi làm hại”. Hòa thượng dạy xong thì bảo Đại sư đi. Thính chúng ở bên cạnh thấynhư vậy đều cười, cho rằng Đại sư từ xa đi ba bước lạy một lạy đến đây,nhất định Lão hòa thượng khai thị diệu pháp; nhưng khi đến chỉ nghe nóicó một câu.

Đại sư Liên Trì chí thành, cung kính tiếp nhận lời dạy. Đại sư nói với mọi người: “Lão hòa thượng đáng được mọi người tôn kính”. Đây là lờinói thật, không phải lời nói nịnh hót, lừa gạt kẻ hậu học. Từ đó, Đại sư tuân theo suốt đời. Đại sư thành tựu kết quả là nhờ câu nói cảnh tỉnhcủa Lão hòa thượng, cả đời tránh xa danh lợi.

Lão hòa thượng Biến Dung nói phù hợp với lời Đức Phật chỉ dạy người sơ học. Những điều này, trên đây tôi đã nói qua: “Tương ứng với lợi ích,tương ứng với pháp và tương ứng với đoạn trừ phiền não, tương ứng với đại niết-bàn”. Người như thế là thật sự thiện tri thức.

Một người ít muốn, biết đủ, có rất nhiều lợi ích, rõ ràng nhất là họ bớt được nhiều lỗi lầm. Chúng ta biết chẳng những là người thế gian mà ngay cả hàng xuất gia và tại gia trong đạo Phật cũng phạm lầm lỗi rất nhiều. Từ đâu sinh ra? Từ tham dục sinh ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/07/2011(Xem: 5158)
Khái niệm ‘nghiệp’ vốn đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiên ở đời : chính trên cơ sở của giáo thuyết về ‘nghiệp’ này mà Bà-la-môn giáo thiết lập hệ thống cứng ngắt về bốn giai cấp : Brahman(Bà-la-môn), Sát-đế-lợi, Tỳ-xá, Sudra(Thủ-đà-la). Đức Phật đã bác bỏ quan điểm giai cấp ấy, bằng câu nói : “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn”.
20/07/2011(Xem: 10255)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
20/07/2011(Xem: 5457)
Kết quả của bất cứ hành động nào tùy thuộc trên động cơ. Tùy thuộc trên hoặc là có một cảm xúc phiền não hay một cảm xúc tích cực phía sau nó, cùng một hành động đưa đến những kết quả khác nhau. Ngay cả khi cùng một cảm xúc chung chung, lòng từ bi thương yêu như vậy, thúc đẩy một hành động, những sự hổ trợ tinh thần và xúc cảm của hành động ấy cũng tác động lên kết quả.
17/07/2011(Xem: 9117)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
13/07/2011(Xem: 5679)
Điều bi thảm nhất trong thế gian thật không chi bằng cái chết, nhưng khắp cả người đời có ai may mắn thoát được nổi? Vì vậy, người hữu tâm muốn lợi mình lợi người thì chẳng thể không sớm lo liệu… Kẻ chẳng biết Phật pháp chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển, không làm thế nào được. Nay đã được nghe pháp môn Tịnh Độ phổ độ chúng sanh của đức Như Lai thì phải nên tín, nguyện niệm Phật, sắp sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được huyễn khổ luân hồi sanh tử, chứng sự vui chơn thật Niết Bàn thường trụ.
12/07/2011(Xem: 7494)
Một số người nghĩ rằng họ biết tất cả về Đạo Phật và Phật tử chỉ bởi vì họ đã đọc một vài quyển sách. Họ cầm một quyển lên, “Hmm. Hãy xem quyển sách này nói gì. Ô, theo điều này, dường như những người Phật tử là cực đoan. Họ tin tưởng trong tất cả những loại dữ kiện kỳ dị.” Họ cẩm một quyển khác lên: “Lạy Chúa tôi, Đạo Phật hoàn toàn hư vô.” Họ vẻ ra tất cả những loại kết luận sai lầm căn cứ trên những thông tin giới hạn một cách cực đoan; họ không thấy bất cứ điều gì như toàn cảnh của một bức tranh. Điều này rất nguy hiểm.
12/07/2011(Xem: 4334)
Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản, tối quan trọng trong hệ thống giáo lý, là tinh hoa căn bản trong lời Phật dạy. Đây là pháp hành căn bản trong sự tu tập giải thoát. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa lý thâm sâu bài pháp Tứ Diệu Đế, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa như thế nào được gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành?
07/07/2011(Xem: 5834)
Đưa ra sự kiện rằng trong truyền thống của ngài hiện hữu những thể trạng trong sáng và có những báo cáo về những hành giả kinh nghiệm thể trạng vi tế của tâm thức, câu hỏi của tôi có hai phần: Thứ nhất, những thể trạng vô phân biệt của tâm thức trong lý thuyết có thể được quán sát với những khí cụ ngoại tại không? Thí dụ, nếu chúng tôi để một thiền giả người ở trong thể trạng linh quang vào trong một trong những máy móc hiện đại của chúng tôi với những cộng hưởng từ trường, sử dụng những kỷ thuật hình dung não bộ mới, chúng tôi có thể thấy điều gì đấy, dấu hiệu gì đấy về thể trạng vi tế này không? Có lẻ chúng tôi chưa biết làm điều này như thế nào, nhưng trong lý thuyết, ngài có nghĩ là có thể làm được không? Chúng tôi không muốn đầu hàng với một nhị nguyên mới, tính thô thiển và vi tế, bản chất tự nhiên nhân quả giữa hai trình độ này là gì?
01/07/2011(Xem: 4175)
Việc đối nhân xử thế của chúng ta ở trong cõi đời này, đều cần coi trọng hiệu năng và công dụng. Tựa như kiếm tiền có ích gì, đọc sách có lợi gì? Kiếm tiền không những có thể giải quyết nhiều vấn đề trong đời sống, mà còn có thể tạo phước cho nhân quần xã hội; đọc sách có thể tăng thêm tri thức, hiểu thêm cách ứng xử giao tiếp, mai sau có thể lập nghiệp thành công. Cũng vậy, “Bát nhã” có diệu dụng gì đối với chúng ta? “Bát nhã” chính là trí tuệ và năng lực (trí năng), không chỉ dừng lại ở đấy, mà diệu dụng của nó còn có rất nhiều.
01/07/2011(Xem: 4622)
Đạo Phật đến với người Âu Mỹ chúng ta qua nhiều tông phái và hệ phái, làm cho một người mới vào đạo cảm thấy rất bỡ ngỡ, mất rất nhiều thì giờ tìm hiểu những chi tiết vô nghĩa. Ngay cả chính tôi, sau 30 năm nghiên cứu Đạo Phật và hành trì trong những truyền thống khác nhau, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng về tính chất phức tạp của đạo nầy. Từ lâu, tôi đã giới hạn sự hiểu biết của tôi trên bình diện tổng quát của Đạo Phật, và chỉ đào sâu vào một vài tông phái đặc biệt. Cho nên, vì sự hiểu biết của tôi rất tổng quát, hy vọng những gì trình bày ở đây có thể sẽ giúp ích phần nào cho những người mới bắt đầu tìm hiểu Đạo Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]