Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 06: Chánh pháp tương ứng tuyệt đối với lợi ích chân thật

14/12/201206:20(Xem: 5699)
Chương 06: Chánh pháp tương ứng tuyệt đối với lợi ích chân thật

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 6
Chánh pháp tương ứng tuyệt đối với lợi ích chân thật


Trước tiên, chúng ta phải công nhận con người sống trong thời đại nàytu hành rất khó khăn, cũng chính là những điều mà Đức Phật đã nói trongpháp hội Lăng-nghiêm là có rất nhiều ma chướng. Những điều chúng ta mắtthấy, tai nghe trái với tâm thanh tịnh của chúng ta đều thuộc về ma chướng; cho nên, trong kinh Đức Phật dạy rất hay. Khi Ngài còn tại thế giảng kinh thuyết pháp cũng có một số nguyên tắc, những nguyên tắc này đương nhiên là chỉ dạy cho Bồ-tát, mong muốn kẻ học đời sau đều tuân thủ.

Tất cả pháp Đức Phật dạy hoàn toàn tương ứng với lợi ích, cũng chính là nói Phật giúp chúng ta đạt được lợi ích ngay trong cuộc sống hiện tại. Nếu như nói đời này được lợi ích mà đời sau lại không có lợi ích thì những điều Đức Phật nói không có lợi ích chân thật. Lợi ích chân thật là đời nay được có lợi, đời sau, đời sau nữa, nhiều đời đều được cólợi; đó mới được gọi là “lợi ích chân thật”. Chư Phật và Bồ-tát tuyệt đối không nói lời vô ích.

Ý nghĩa câu nói này rất thâm diệu; bởi vì, ngoài Đức Phật ra, ở xã hội hiện đại này, như kinh Lăng-nghiêm đãnói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như số cát sông Hằng”. Tà sư nói tất nhiên là không đúng chánh pháp. Vì sao có rất nhiều người tin theo họ? Có rất nhiều người ủng hộ họ? Trong đó đương nhiên có đạo lý.

Nếu như trên đây nói có lợi ích, có lẽ những tà sư này có thể giúp bạn được lợi ích đời này; nhưng không thể bảo đảm cho bạn được lợi ích đến đời sau. Chúng ta hãy bình tĩnh quán sát kỹ thì rất dễ hiểu. Hiện tại có thể làm cho bạn được danh tiếng, lợi dưỡng, đầy đủ tham, sân, si,mạn, nghi, đầy đủ phiền não, bạn cũng rất hài lòng, vì bạn muốn tham thì được tham.

Thật sự mà nói, nếu như trong vận mạng của chúng ta không có giàu sang, không có danh lợi thì những tà sư giúp đỡ chúng ta có được không? Nói cho các vị biết, nhất định không được. Nếu như họ giúp được chúng tathì năng lực của họ vượt trên nhân quả, họ có thể đảo lộn định luật nhân quả. Chư Phật đều không làm được thì làm sao họ làm được?

Do đó có thể biết, cho dù họ có dùng nhiều cách, dường như họ giúp chúng ta được, nhưng kỳ thật trong vận mạng của chúng ta vốn đã có sẵn, đúng như chân tướng sự thật “tất cả mọi việc đều do tiền định”. Những sựthật này, mọi người định tĩnh suy nghĩ một chút thì có thể nhìn thấy được. Những tín đồ, tín chúng của họ có được, có phải người nào cũng được danh lợi không? Không thấy. Thật sự rất ít người đạt được. Nếu như mọi người đều đạt được thì mới là chân thật.

Có người được, có người không được; như thế chưa chắc là chân thật. Người đạt được là nhờ cơ duyên của họ chín muồi, nghiệp nhân thành thục,quả báo hiện ra mới được như thế. Do đây có thể biết chẳng phải năng lực của bọn tà sư. Họ có năng lực biết quả báo của chúng ta khi nào sẽ hiện ra. Họ có chút thần thông biết vận may của chúng ta khi nào đến, biết chúng ta khi nào sẽ được thăng quan, khi nào sẽ được phát tài, dựa vào nhân duyên của chúng ta mà họ đến gia trì, phù hộ cho chúng ta. Chúng ta mắc lừa họ, đời sau nhất định đọa vào trong ba đường ác. Cho nên việc này chẳng phải là lợi ích và không tương ứng với lợi ích chân thật.

Đức Phật dạy chúng ta muốn cầu giàu sang ở thế gian, không phải cầu không được. Mọi người thường nghe nói rất hay: “Trong nhà Phật có cầu thì có ứng”. Câu nói này là thật, chúng ta phải cầu cách nào? Nhất định phải đúng lý đúng pháp, phải có lý luận và phương pháp chánh đáng.

Nói theo lý là tâm chí thành, tâm thanh tịnh, tâm đại từ bi. Nói theosự là Đức Phật dạy chúng ta bố thí. Chúng ta đem của cải bố thí là trồng nhân, được giàu sang là quả. Vì thế chúng ta muốn được giàu sang, nhất định phải tu bố thí của cải. Chúng ta muốn được thông minh trí tuệ thì phải biết tu bố thí pháp. Chúng ta mong muốn mạnh khỏe sống lâu, thìphải biết tu bố thí vô úy.

Đức Phật dạy chúng ta tu nhân thế nào thì được quả như thế đó. Như thế là tương ứng, chẳng những tương ứng với lợi ích mà cũng tương ứng với pháp; đúng lý, đúng pháp thì cầu việc gì cũng được như ý. Nếu như chúng ta đã cầu mà không được toại nguyện. Đây là nguyên nhân gì? Là do mình có nghiệp chướng gây trở ngại, cho nên cầu mà không được toại nguyện.

Lúc này, chúng ta phải làm thế nào? Phải tìm cho ra nghiệp chướng, làm tiêu trừ nghiệp chướng thì được mãn nguyện. Tất cả các kinh, Đức Phật nói rất nhiều về lý luận và phương pháp mong cầu. Nếu các vị đọc kinh Vô Lượng Thọthì sẽ thấy rất đầy đủ. Sau khi đọc thuộc, chúng ta có cơ hội sẽ cùng với các bạn đồng tu nghiên cứu thảo luận về nghĩa lý trong kinh và tìm cách để đem ứng dụng vào cuộc sống. Cuộc sống thường ngày của chúng ta phải làm thế nào để vận dụng được những nguyên lý, nguyên tắc này thì mới là thật sự tu hành.

Thế nên phải tương ứng với lợi ích và phải tương ứng với phương pháp lý luận, điều quan trọng nhất là phải đoạn trừ phiền não. Những pháp ma nói hoàn toàn không chân thật. Ma không dạy chúng ta đoạn trừ phiền não,ma khuyến khích chúng ta tăng trưởng tham, sân, si, mạn. Phật, Bồ-tát dạy chúng ta xa lìa phiền não, đoạn sạch phiền não. Xa lìa phiền não thìcông phu tu hành của chúng ta mới được hiệu quả; đoạn sạch phiền não thì mới có thể chứng quả, cũng chính là nói chúng ta mới có thể đạt đến đại viên mãn, đại tự tại.

Vào thời kỳ mạt pháp, tức là thời đại ngày nay, chư Phật, Bồ-tát thị hiện ở đời, cũng chính là nói các ngài tái lai. Có tái lai chứ không phải không có, nhưng không nhất định là một thân phận, có lúc thân phận pháp sư xuất gia, có khi thân phận trưởng giả cư sĩ tại gia. Chắc chắn là khuyên bạn niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ. Vì sao? Vì đây là lợi ích cứu cánh viên mãn.

Nếu như đời này không được vãng sanh thì cho dù chúng ta tu pháp môn nào cũng không có cách nào ra khỏi sáu đường luân hồi, cũng chính là nóichúng ta không có năng lực đoạn Kiến, Tư phiền não. Chúng ta không thoát được luân hồi thì chắc chắn suốt thời gian dài ở trong ba đường ác, thời gian ngắn trong ba đường thiện; điều này chúng ta không thể không cảnh giác.

Đức Phật lấy thân mình làm gương mẫu, là bài thuyết pháp sống động cho đại chúng noi theo tấm gương này. Khi Đức Phật còn tại thế, những người tu học căn cơ không giống nhau, hàng đệ tử xuất gia và tại gia căntánh thuần thục; cho nên Đức Phật thuyết pháp có nhiều pháp môn giúp họtu học thành tựu; đây chính là lý do để lại đời sau nhiều kinh điển nhưthế.

Trong kinh Đại tập, Đức Phật khai thị cho người đời sau rất rõ ràng. Thời kỳ chánh pháp thì giới luật thành tựu, thời kỳ chánh pháp là sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng một nghìn năm. Thời kỳ tượng pháp thì Thiền định thành tựu, Phật giáo truyền đến Trung Quốc chính là thời kỳ tượng pháp; cho nên, thiền định thành tựu ở Trung Quốc thực sự vẻ vang xán lạn. Phật pháp ở thời kỳ mạt pháp thì Tịnh độ thành tựu. Hiện nay, bất luận là sự ghi chép từ lịch sử Trung Quốc; hoặc là phương pháp tính toán của người nước ngoài, sau khi Đức Phật nhập diệt hai nghìn nămlà thời kỳ mạt pháp. Thời kỳ mạt pháp tu Tịnh độ dễ thành tựu, đây là lời Đức Phật dạy. Cho nên tất cả chư Phật, Bồ-tát nếu vì nguyện lực tái lai ở thế gian thì nhất định khuyên mọi người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2012(Xem: 7765)
Bấy giờ, tại thành Xá-Vệ, có Bà-la-môn Trường-Thân tổ chức đại hội cúng tế rất lớn, các lễ vật gồm bảy trăm con vật và các thức ăn thức uống cũng được chuẩn bị một cách đầy đủ. Thành phần tham dự gồm có dân chúng trong vùng, các viên chức sắc trong cả nước Xá-Vệ đến, đặc biệt hơn nữa là nhiều người từ các nước khác cũng sẽ đến dự kỳ đại hội cúng tế lớn lao này.
12/06/2012(Xem: 5472)
Vào mùa thu Milarepa đi tới một địa điểm được gọi là Gepa Lesum, nơi người dân đang thu hoạch mùa màng. Ngài đang khất thực thì một thiếu nữ tên là Nyama Paldarbum nói: “Ông đi tới căn nhà ở đằng kia, con sẽ gặp ông và tặng ông thực phẩm.”
10/06/2012(Xem: 7483)
Theo truyền thống Tiểu thừa Phật giáo, chúng ta bị dính vào cõi này với sinh, tử, tái sinh và chết đi vô tận bởi chúng ta tham lam mọi thứ và bám chấp vào chúng quá nhiều. Thậm chí mặc dù, bánh xe cuộc đời này mang đến rất nhiều khổ đau cho chúng ta, ta vẫn bám lấy nó. Truyền thống Tiểu thừa nhấn mạnh vào việc loại bỏ các nguồn gốc dù là tốt đẹp của tham luyến. Theo Đại thừa, bởi ngu dốt chúng ta bị kéo vào vòng luân hồi này. Chúng ta chấp nhận những thứ không thật là thật, và chúng ta nghĩ những thứ không thật đó là sự thực đúng đắn duy nhất. Mọi thứ chúng ta nghĩ phản ánh sự hiểu sai lầm về việc mọi thứ thực sự như thế nào. Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta là phát triển cái được gọi là “trí tuệ siêu việt,” để tiêu trừ các nguồn gốc của ngu dốt này.
16/05/2012(Xem: 4862)
Hôm nay, nhân mùa an cư, về đây thuyết pháp nhắc tôi nhớ lại tỉnh Bình Phước là tỉnh đầu tiên mà tôi đã đến hoằng pháp khi tôi mới ra trường vào năm 1958, nên tôi có độ cảm sâu sắc với tỉnh nhà; đặc biệt là trong hai cuộc chiến tranh vừa qua, nhân dân ở tỉnh này đã hy sinh quá nhiều. Vì vậy, giữa những người đã khuất và những người đang sống nơi đây có sự Liên hệ mật thiết, gợi cho chúng ta suy nghĩ rằng cần phải giúp cho người khuất bóng được siêu thoát thì người sống mới phát triển được ý này trong Phật giáo gọi là âm siêu dương thới.
16/05/2012(Xem: 4601)
Trên bước đường tu hành, mục tiêu của hàng đệ tử Phật là giải thoát sinh tử, đến Niết bàn theo tinh thần Phật giáo Nguyên thủy, hay thâm nhập vào các Tịnh độ theo tinh thần Phật giáo Bắc tông. Ở đây, chúng tôi triển khai một phần về thế giới Niết bàn. Thế giới Niết bàn hoàn toàn đối lập với thế giới hữu hạn mà chúng ta đang sống. Thật vậy, tất cả vạn vật hiện hữu ở thế giới Ta bà đều bị sự chi phối của định luật vô thường, khổ, không, vô ngã, không thể khác. Loài người sống trong thế giới sinh diệt cũng không thể thoát khỏi định luật này, gọi là sinh, già, bệnh, chết. Các loài thực vật cũng có bốn tướng là sinh, trụ, hoại, diệt và thế giới cũng trải qua bốn giai đoạn là thành, trụ, hoại, không.
10/05/2012(Xem: 5571)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấy có Tỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
09/05/2012(Xem: 3976)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ ([1]) và Kinh Đại Tập ([1]) là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Chư Tổ như các ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Thiên Như, Liên Trì, Ấn Quang, v.v… cũng đều đề xướng tuyên dương pháp môn Tịnh độ.
09/05/2012(Xem: 5040)
Niệm Phật tu hành bằng chơn tâm là biết được tánh trọng yếu của vấn đề niệm Phật, không quản ngại công tác nhiều, sự tình bề bộn, tuy thân bận rộn mà tâm không bận rộn, không để việc đời vướng mắc mà bị chuyển đổi. Như gương chiếu hình, hình hiện lên không chỗ nương cậy, hình mất đi không lưu dấu; cả ngày công việc đoanh vây, mà vẫn thong dong ngoài vật. Bởi vậy, hàng ngày lợi dụng những lúc: ngủ dậy, trước khi ngủ, trước và sau khi ăn, trước khi làm việc, sau khi làm việc, lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi... Tùy thời tùy chỗ mà niệm Phật. Lúc công tác dụng tâm suy nghĩ, tạm thời gác câu niệm Phật, công việc xong rồi lại tiếp tục câu Phật hiệu. Niệm Phật nhiều để thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật thì sẽ được nhất tâm bất loạn; hiện đời này chứng được “niệm Phật tam muội” càng hay. Đó là: không làm các việc ác, vưng làm các pháp lành, tự thanh tịnh nơi ý, ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh thì lúc mệnh chung mới có thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, thần trí trong sáng th
04/05/2012(Xem: 11731)
Trong rất nhiều pháp môn tu tập theo giáo lý Phật giáo, thì mỗi một pháp môn tu tập là mỗi một con đường đi về với quê hương của chính mình, là mỗi một con đường đi về với quê hương chư Phật. Và, Tịnh độ cũng là một trong những con đường giúp ta sớm trở về với quê hương ấy.
01/05/2012(Xem: 10789)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]