Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

C. Ngài Thiện Đạo và Tư Tưởng Tịnh Độ

17/07/201200:58(Xem: 10795)
C. Ngài Thiện Đạo và Tư Tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG
HT Thích Như Điển biên soạn



to su thien dao



III. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA TRUNG HOA
C.- Ngài Thiện Đạo và Tư Tưởng Tịnh Độ



Ngài Thiện Đạo sinh năm 613 và viên tịch năm 681, là Cao Tăng Trung Quốc, sống vào đời nhà Đường, người huyện Lâm Chung, tỉnh Sơn Đông (có thuyết nói người ở Hu Di, tỉnh An Huy), họ Chu, hiệu Chung Nam Đại Sư. Sư là Tổ thứ 3 của Tông Tịnh Độ; cũng chính là người tập đại thành phái Đàm Loan, Đạo Xước thuộc Tông Tịnh Độ.

Lúc tuổi nhỏ, Sư theo Ngài Minh Thắng ở Mật Châu xuất gia, tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma… Sau Sư được đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ, vui buồn lẫn lộn; Sư liền tu tập 16 pháp quán nói trong kinh nầy.

Năm Trinh Quán thứ 15 (641) đời vua Thái Tông nhà Đường, Sư đến chùa Huyền Trang ở Hà Tây yết kiến Ngài Đạo Xước, tu học Phương Đẳng sám pháp và nghe giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ. Từ đó về sau, Sư chuyên việc niệm Phật, dốc lòng tinh tấn, khổ hạnh, chứng được Niệm Phật Tam Muội; ở trong định thấy được cảnh trang nghiêm của Tịnh Độ. Về sau, Sư vào Trường An trụ ở chùa Quang Minh, truyền bá pháp môn Tịnh Độ. Sư hành trì tinh nghiêm, hằng ngày chắp tay ngồi theo kiểu của người Hồ (người các nước Tây Vực), nhất tâm niệm Phật đến khi mỏi mệt mới thôi.

Trong hơn 30 năm, Sư không có chỗ ngủ nhất định nào khác, không nhận sự lễ bái của Sa Di. Sư dùng của cúng dường vào việc viết chép 10 vạn quyển kinh A Di Đà và vẽ 300 bức tranh Tịnh Độ biến tướng, sửa chùa, làm lại các tháp miếu, già lam đã hư hoại. Sư đi hóa độ ở các châu, mọi người đều ngưỡng mộ đức của Sư; hoặc có người tụng kinh A Di Đà 10 vạn đến 30 vạn biến; hoặc có người trong thời khóa hàng ngày xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 vạn đến 10 vạn biến; hoặc có người chứng được Niệm Phật Tam Muội và vãng sanh Tịnh Độ.

Ngày 14 tháng 3 năm Vĩnh Long thứ 2 (681) Sư thị tịch, thọ 69 tuổi; Đệ tử có các vị Hoài Cảm, Hoài Huy, Tịnh Nghiệp…


Sư có các tác phẩm: Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ 4 quyển; Tịnh Độ pháp sự tán 2 quyển; Quán Niệm Pháp Môn 1 quyển; Vãng Sanh lễ tán kệ 1 quyển; Bát Chu tán 1 quyển; Ngũ Chủng tăng thượng duyên nghĩa 1 quyển. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5826-5827).


(Xem Tục Cao Tăng truyện quyển 27; Vãng Sanh Tịnh Độ thụy ý san truyện; Niệm Phật kinh; Phật Tổ thắng ký quyển 26, 27; Tịnh Độ Vãng Sanh truyện quyển trung; Long Thư tăng quảng Tịnh Độ văn quyển 5; Lạc Bang văn loại quyển 2; Thần tăng truyện quyển 5; Vãng Sanh tập quyển thượng; Thích Thi kệ cổ lược quyển 3; Tịnh Độ Thánh Hiền lục quyển 2; Loại tụ Tịnh Độ Ngũ Tổ truyện; Kim Thạch tụng biên 73, 86).


Thời nhà Đường là thời văn hóa Phật Giáo được phát triển mạnh. Các loại kinh điển được phiên dịch chú giải ra tiếng Trung Hoa rất nhiều; nhất là cuộc đời của Ngài Thiện Đạo lại sinh ra cùng thời với Ngài Huyền Trang. Sau khi Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh về (645) và chú dịch tại Trường An, Ngài Thiện Đạo vẫn còn tại thế và đang hành trì Pháp môn niệm Phật; bằng cách mỗi ngày niệm Phật nhiều lần cũng như viết kinh, dịch sách. Kinh A Di Đà không dài; tuy nhiên chép tay 10 vạn quyển (tức là 100.000 bản) thời ấy phải cần rất nhiều thời gian. Vì ngày ấy không có máy in, ấn, sang chụp như ngày nay. Như vậy so ra ý chí của người xưa và người nay khác nhau một trời một vực.


Trong Tiểu Sử của Ngài cũng được cho biết rằng: Nếu Ngài có được của cúng dường thì thường đem đi sửa chùa, vẽ tranh, chép kinh để tán phát cho mọi người theo tu pháp môn Tịnh Độ. Đồng thời trong 30 năm hành đạo không có chỗ nghỉ ngơi nhất định và không nhận sự lễ bái của Sa Di. Quả là một công hạnh cao tột; do vậy sau nầy Tịnh Độ Tông Nhật Bản mới sắp đặt và cung thỉnh Ngài ở vào vị Tổ Sư Tịnh Độ thứ 5 (kể từ Ấn Độ) và đặc biệt chuyên tâm hành trì lễ bái lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà. Sau nầy, vào thế kỷ thứ 13 ở tại Nhật và ngay cả ngày nay tại Việt Nam, đa phần những người tu theo Pháp môn Tịnh Độ đều thực hành các lời nguyện quan trọng 18, 19, 20 nầy.


Tư tưởng là những gì được cấu thành bởi sự hành trì tu tập một pháp môn mà mình đã trải qua. Do vậy những trứ tác tiêu biểu của một vị Tổ Sư, một vị Đại Sư chính là tư tưởng tiêu biểu của vị ấy. Sau đây chúng ta thử tìm hiểu một vài tác phẩm của Ngài Thiện Đạo viết về Tịnh Độ.


“Vãng sanh lễ tán kệ gọi cho đủ là Khuyến nhứt thiết chúng sanh nguyện sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật quốc lục thời lễ tán kệ”.

Cũng gọi là: Lục thời lễ tán kệ, Vãng sanh lễ tán, Lễ tán.


Tác phẩm nầy gồm một quyển, do Ngài Thiện Đạo soạn vào đời Đường, được thu vào Đại Chánh tạng tập 47.


Soạn giả dùng kệ lễ tán của các Ngài Long Thọ, Thế Thân làm nền tảng mà định ra pháp 6 thời lễ tán, tức vào 6 thời: Lúc mặt trời lặn, đầu hôm, nửa đêm, cuối đêm, sáng sớm và giữa trưa… thực hành lễ tán khác nhau. Như vào lúc nửa đêm tụng bài kệ 12 lễ, thực hành 16 lạc của Ngài Long Thọ; vào lúc cuối đêm thì tụng kệ Vãng Sanh luận thực hành 21 lạy của Ngài Thế Thân. Đây là pháp tu của hành giả niệm Phật”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7055).


(Xem Khai nguyên thích giáo lục quyển 13)


Trú dạ lục thời. Nghĩa là ngày đêm 6 thời, lúc nào cũng có lễ tán, tụng niệm,, sám lạy v.v… Đây là sáng kiến của Ngài Thiện Đạo thuộc đời nhà Đường vào thế kỷ thứ 7. Mãi cho đến 700 năm sau tại Việt Nam, vào đầu thế kỷ thứ 14, có một vị vua Phật tử, vương hiệu Trần Thái Tông (đệ tử của Thiền Sư Đạo Viên, pháp phái Trúc Lâm Yên Tử), cũng đã lập nên Kinh lục thời khóa tụng như Ngài Thiện Đạo bên Trung Quốc; nhưng lục thời khóa tụng của Vua Trần Thái Tông Việt Nam chuyên về Thiền học; còn lục thời khóa tụng của Ngài Thiện Đạo của Trung Hoa chuyên thực hành Pháp môn niệm Phật.


Tiếp đến chúng ta có thể nghiên cứu về tư tưởng của Ngài Thiện Đạo qua tác phẩm “Ngũ chủng tăng thượng duyên”. Cũng gọi là ngũ tăng thượng duyên, ngũ duyên.


Năm thứ duyên tăng thượng của người niệm Phật cầu vãng sanh gồm:


1. Diệt tội tăng thượng duyên, cũng gọi là hiện sinh diệt tội tăng thượng duyên. Niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà làm duyên tăng thượng để tiêu trừ tất cả các nghiệp chướng.

2. Hộ niệm đắc trường mệnh tăng thượng duyên; cũng gọi là hộ niệm tăng thượng duyên. Hiện sinh hộ niệm tăng thượng duyên. Tức được Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí giữ gìn, che chở.

3. Kiến Phật tăng thượng duyên, cũng gọi là kiến Phật tam muội tăng thượng duyên. Hành giả niệm Phật, nhờ sức bản nguyện của Đức Phật A Di Đà mà được thấy Phật.

4. Nhiếp sinh tăng thượng duyên: chúng sinh nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà mà được vãng sanh.

5. Chứng sanh tăng thượng duyên: Người niệm Phật, nhờ nguyện lực của Phật, sau khi mệnh chung nhất định được vãng sanh.


(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3373). (Xem Quán niệm Pháp Môn; Quán niệm Pháp môn tư ký quyển hạ; Luận Thích Tịnh Độ quần nghi quyển 7; Quán kinh Huyền nghĩa phần truyền thông ký quyển 3).


Theo như 5 loại tăng thượng duyên trên, loại nào cũng quan trọng cả. Vì đây chính là những trợ lực thuộc về tha lực của Đức Phật A Di Đà để chúng sanh niệm Phật, sau khi lâm chung sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương Tịnh Độ. Nhưng xét cho kỹ về Tăng Thượng Duyên thứ 3 quan trọng hơn cả. Vì lẽ sự vãng sanh của chúng sanh có được là nhờ vào bản nguyện của Đức Phật A Di Đà chứ không phải là tự lực của chúng sanh niệm mà được vãng sanh. Bản nguyện tiếng Đức gọi là Ursprüngliches Gelobnis. Nghĩa là lời thệ nguyện căn bản, gốc rễ. Chính từ đó phát sinh ra tha lực để giúp đỡ cho các chúng sanh ở mười phương vô biên thế giới siêu sanh về được Lạc Bang. Do lý do nầy mà tư tưởng của Ngài Thân Loan khác với Ngài Pháp Nhiên vốn là Sư phụ của mình; nhưng Ngài Thân Loan thì hoàn toàn giống với Ngài Thiện Đạo. Một người sinh ra ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ 13, chưa biết Trung Quốc là gì; nhưng tư tưởng của Ngài Thiện Đạo cách hơn 600 năm sau đã có người truyền thừa một cách trực tiếp và vững vàng tại Nhật Bản; không những chỉ có từ thế kỷ thứ 13 ấy, mà mãi cho đến tận ngày nay, cho những ai thực hành theo Pháp Môn Tịnh Độ nầy.


Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc là một lịch sử có thật; ít thêu dệt. Thỉnh thoảng vẫn có những câu chuyện thần thoại về một vị Tổ nào đó. Ví dụ như Ngài Bồ Đề Đạt Ma chẳng hạn; khi đến và khi đi đều không để lại dấu tích, hoặc như Ngài Long Thọ (Ấn Độ) xuống Long Cung; Ngài Liên Hoa Sanh (Tây Tạng, Bhutan) bay từ Ấn Độ qua truyền giáo. Hoặc giả như Ngài Nhật Liên (Nhật Bản) hay Ngài Không Lộ (Việt Nam) v.v… Tất cả đều muốn nhân cách hóa lên nhiều lần hơn để trở thành những việc làm thánh thiện hơn người thường. Có như vậy Phật Pháp mới linh thiêng. Có thể điều ấy hợp với thị hiếu của những người bình dân ít học; nhưng đối với những người có nghiên cứu thì họ rất dè dặt với những sự kiện như vậy.


Nếu kể từ thời Vua Hán Minh Đế thời Hậu Hán vào năm 68 sau Tây lịch, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã được dịch ra tiếng Trung Hoa và đến thời Ngài Huệ Viễn (334-416) là gần 400 năm; theo sử Trung Hoa thì Tịnh Độ Tông đã chính thức được thành lập. Nếu tính theo Phật Giáo Tịnh Độ Nhật Bản và các nhà nghiên cứu phương Tây (Christian Steineck) thì cho rằng Tịnh Độ Tông Nhật Bản bắt đầu ở Trung Hoa từ thời Ngài Đàm Loan (476 - ?). Ngài Đàm Loan có thể thị tịch vào năm 554. Đó mới chỉ là nghi vấn; chứ chưa có những xác tín đáng tin cậy. Nhưng nếu chỉ tính từ năm 48 đến năm 500 sau Tây lịch, dẫu cho Tông Tịnh Độ ở Trung Hoa vị nào là Đệ nhất Tổ đi nữa thì Tông nầy vẫn chưa được dân chúng và triều đình Trung Hoa biết đến trước tiên và rõ ràng hơn cả Thiền Tông tại đó nữa. Vì lẽ Thiền Tông tại Trung Quốc chính thức do Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ truyền sang năm 520 đời vua Lương Võ Đế (464-549). Đạt Ma Tổ Sư là vị Tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ và là Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Như vậy Thiền Tông được chính thức có mặt tại Trung Hoa vẫn sau Tịnh Độ 20 năm (nếu kể từ thời Ngài Đàm Loan) và sau 120 năm (sau Ngài Huệ Viễn).


Từ giữa thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 5 các nhà Sư Trung Hoa đang tiếp cận một nền Phật Giáo sơ khai do các vị Tăng từ Ấn Độ sang truyền giáo tại đây như các Ngài:


Ca Diếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan không rõ năm sinh và năm mất; nhưng các Ngài đã đến Kinh đô Lạc Dương từ giữa thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Rồi Ngài An Thế Cao (148-170 ?) – Ngài cũng là người đầu tiên mang Thiền Quán vào Trung Quốc; nhưng không có sự truyền thừa. Tiếp đến là Ngài Cưu Ma La Thập (344-413). Các Ngài là những vị Đại Luận Sư, Đại Học giả, Đại Dịch giả, Đại Hành giả v.v… Hầu như là người ngoại quốc đến Trung Hoa; đầu tiên các Ngài phải học chữ Hán từ cách viết cho đến cách nói để sử dụng trao đổi hằng ngày, sau đó mới đem những bản kinh nguyên văn bằng chữ Phạn dịch sang tiếng Trung Quốc. Từ đó mới có người Trung Quốc tu học theo. Đây là thời kỳ đầu, Phật Giáo chưa bắt rễ tại đây; có lẽ vì vậy mà các Ngài chưa vội gì tạo ra tông phái. Đến khi Phật Giáo phát triển mạnh sau thời nhà Lương đến thời nhà Đường thì các Tông Phái mới phân chia rõ ràng. Ở đây chúng tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề là lâu nay nhiều người tu thiền chấp vào cách truyền thừa liên tục, cho rằng Thiền Tông mới có tính cách nhất quán; còn Tịnh Độ thì không có đầu đuôi và không có sự truyền thừa rõ rệt. Xem qua lịch sử truyền thừa của Tịnh Độ Tông Trung Hoa và Nhật Bản bên trên quá rõ nét, để cho Phật Tử Việt Nam chúng ta cũng sẽ hãnh diện lây là việc truyền thừa Tịnh Độ đến Việt Nam qua kinh điển và sử liệu cũng sẽ minh bạch rõ ràng, để người đời sau khi học Phật có nơi y cứ vào đó mà phát triển.


Dầu là Hoa Nghiêm, Pháp Tướng, Pháp Hoa, Chân Ngôn, Thiền hay Tịnh Độ v.v… tất cả chúng ta chỉ có chung một cái gốc. Đó là cái gốc căn bản của sự giác ngộ và giải thoát sanh tử luân hồi. Còn sự lập Tông, chia Phái… chỉ là phương pháp của các vị Tổ Sư muốn giúp cho những hành giả thuận theo pháp môn nào thì hành trì theo pháp môn đó, để được lợi mình, lợi người; chứ không phải chỗ cao thấp trong giáo lý. Ví như có người bảo rằng: Thiền dành để cho những người căn cơ cao; còn Tịnh Độ để cho đàn bà, con trẻ và những người có căn cơ yếu kém. Điều ấy hẳn sai. Vì trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng: “Cõi Tịnh Độ không phải để cho người ít có căn lành được sanh về đó”. Vậy cao hay thấp, đúng hay sai, chánh hay tà là do con người; chứ không phải do ở nơi pháp.


Chúng tôi chỉ muốn dùng hình thức nghiên cứu nầy để chứng minh rõ ràng về lai lịch cũng như cách truyền thừa của Tịnh Độ Tông để người đời sau đỡ mặc cảm và bỡ ngỡ rằng: Tông phái mình theo không có lai lịch, xuất xứ và không có những sự truyền thừa rõ ràng. Một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” nó không chỉ đơn thuần trong 6 chữ Hồng Danh, mà câu ấy là một câu Thần Chú để trợ duyên cho hằng hà sa số chúng sanh ở cõi phàm tục nầy được siêu sanh về cõi Tịnh Độ qua bổn nguyện của Đức Từ Phụ A Di Đà.


Mỗi vị Bồ Tát, mỗi một vị Phật xuất hiện nơi đời nầy đều có những lời Đại nguyện khác nhau. Ví dụ như Đức Phật A Di Đà khi còn là vị Tỳ Kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời Đại nguyện; Đức Phổ Hiền Bồ Tát có 10 Đại nguyện; Đức Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng có 12 lời nguyện và 32 hóa thân. Ngoài ra Đức Địa Tạng Bồ Tát, Ngài Di Lặc v.v… tất cả các Ngài đều vì sự giải thoát sanh tử của chúng sanh mà vào đời ác ngũ trước nầy để lập nguyện cứu khổ quần mê, quay về bờ giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2024(Xem: 171)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
16/03/2024(Xem: 1169)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 668)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 3434)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
23/10/2023(Xem: 4465)
Hôm nay là ngày 21/11/2020, là một ngày đáng để kỷ niệm. Từ hôm nay trở đi tôi bắt đầu phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, nguyện đem công đức này hồi hướng cho lão pháp sư thượng Tịnh hạ Không. Báo đáp ân sư ơn tri ngộ, Y giáo phụng hành an lòng Thầy. Ân pháp nhũ thật khó báo đáp, Toàn tâm toàn lực hoằng đại kinh. Thỉnh cầu ân sư thương xót chúng sanh khổ mà trụ thế độ quần manh! Chúng ta đều làm học trò ngoan biết nghe lời. Hôm nay là ngày 21/11/2020, là ngày kỷ niệm Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc tròn 8 năm, chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, lấy việc này biểu đạt sự tưởng nhớ và cảm ân sâu sắc của chúng ta dành cho Bồ-tát Lưu Tố Thanh.
18/04/2023(Xem: 3622)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2238)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
14/03/2023(Xem: 5630)
Trong xã hội bận rộn ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, và đã đến lúc chúng ta cùng thư giãn, chú trọng đến sức khỏe tinh thần nhiều hơn. Cách thực hành dễ nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất là cùng Headspace, 10 phút thiền định mỗi ngày để thay đổi cuộc sống. Với những kiến thức mới về thiền trong bộ sách 3 cuốn rất mỏng và dễ đọc để ứng dụng này, chúng ta chắc chắn có lối sống tích cực, vui vẻ hơn và bình an hơn. Bộ sách gồm 3 cuốn mang đến những lợi ích khác nhau, từ quản lý sự căng thẳng đến trân trọng và biết ơn cuộc sống. Hướng dẫn những kỹ thuật căn bản nhất về thực hành thiền là mấu chốt để thay đổi cuộc sống của bất cứ ai may mắn đọc sách này.
20/10/2022(Xem: 2068)
Niệm Phật, cuối cùng thì bạn cũng đã đến đây! Cuối cùng thì bạn cũng đã bắt đầu khởi tâm tìm đường về “nhà”, sau biết bao nhiêu trầm luân, khổ hải của kiếp nhân sinh. Hết thảy những ai tìm đến niệm Phật, cũng đều là bởi một trong những nguyên nhân sau đây. Có phải bạn cũng thế hay không? Nghèo khó, gia đình suy vi khổ lụy, vợ con nay yếu mai đau, cửa nhà thiếu trước hụt sau. Bệnh nặng lâm thân, mà thuốc thang dây đưa không khỏi, mạng sống mong manh sớm tối. Cuộc sống bế tắc, gia đình bất hòa, anh em hoặc vợ chồng chẳng thuận, con cái ngỗ nghịch.
21/08/2022(Xem: 3733)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh tạng. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng, dạy con người cách sống an lạc. Muốn sống an lạc, người học Phật phải liễu tri và hành trì, tu tập đúng lời Phật dạy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567