Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Thiện ác quả báo vô tình

13/04/201203:21(Xem: 6897)
11. Thiện ác quả báo vô tình

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Thiện ác quả báo vô tình

Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Thật sự các bậc Thánh nhân Bồ Tát khi hành động, suy nghĩ việc gì luôn kiểm soát và làm đúng với chánh pháp, lợi mình, lợi người; không bao giờ sợ hãi buồn khổ những kết quả mà mình đang lãnh; Bồ Tát chỉ sợ tạo nhân không tốt, không bao giờ sợ quả không lành.

Trái lại chúng sanh, không bao giờ muốn tạo nhân tốt, nhưng lại thích hưởng quả tốt. Khi tạo nhân, chúng sanh thích hành động theo sự ưa muốn của dục lạc, phóng xả sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý chạy theo sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mê mờ tạo không biết bao nhiêu là tội lỗi, trên thì buôn thần bán thánh, mắng chửi cha mẹ, dưới thì khổ nhục vợ (chồng), anh, em, con cháu, cho đến tham mê danh lợi và để thỏa mãn dục tánh, đã tạo không biết bao nhiêu nghiệp ác: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, làm đau khổ không biết bao nhiêu chúng sanh đang sống chung quanh ta nhưng không hề để ý. Trái lại, khi nhận lãnh quả báo đau khổ do nhân xấu nhiều đời đã tạo thì kêu than oán trách Trời Phật Quỷ Thần không ủng hộ. Một việc thiện nhỏ không làm nhưng muốn nhận lãnh những kết quả tốt to lớn. Tự mình không muốn làm việc thiện đã đành; nhưng, thấy người khác làm việc thiện thì lại sanh tâm ghen ghét đố kỵ.

Chúng sanh vì mê mờ nên không nhận thức được mọi sự xảy ra trong cuộc đời, không có chi là tự nhiên mà tất cả đều có nhân và quả của nó. Mỗi hành động tạo tác hoặc thiện hoặc ác của ta ngày hôm qua thì chúng ta lại phải nhận lãnh kết quả ấy ngày hôm nay; và, mỗi hành động tạo tác tốt xấu của ngày hôm nay, thì ta lại nhận lãnh cái kết quả ấy cho ngày mai. Tất cả những thứ quả báo thiện ác ấy không có một thứ tình cảm riêng tư đối với một ai. Thâm tình như cha (mẹ) con, nghĩa nặng như vợ chồng, cũng không chia sẻ nhau để nhận lãnh những thứ nghiệp lực thiện ác sau khi chết.

Vì sợ nhân không tốt, chẳng sợ quả không lành; nên đức Thế Tôn của chúng ta đã lìa bỏ ngôi vị Thái Tử mà vào rừng tu tập để tìm ra chân lý giải thoát cho mình và cho mọi chúng sanh. Bồ Đề Đạt Ma cũng vì lo nhân không tốt nên cũng đã lìa bỏ ngôi vị Thái Tử mà đi tu. Cũng thế, Trúc Lâm Đại Đầu Đà (vua Trần Nhân Tông) tại Việt Nam cũng vì lo nhân không tốt nên đã bỏ ngôi vua cắt tóc làm vị Sa Môn ẩn tu nơi thâm sơn hẻo lánh, còn không biết bao nhiêu vị Thánh nhân khác nữa cũng đã làm như thế là vì sợ nhân không tốt, và, lúc nào cũng vui vẻ để nhận lãnh những thứ quả báo không vui nếu có.

Còn chúng ta chết trong mê mờ, sống trong cuồng vọng, chỉ lo hưởng quả mà không biết tạo nhân. Hưởng thụ ở nơi: tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ thì mong muốn đầy đủ sung túc; nhưng không có ý muốn gây một nhân tốt. Suốt đời phiền hà trách móc tại sao ta lại gặp những điều không vừa ý; nhưng không biết rằng đó là kết quả mà chính ta đã tạo nhiều sự không vừa ý đến với những người chung quanh ta trước kia, mà ta không biết hay cố tình không muốn biết.

Ta tự nghĩ say mê đắm chìm trong dục lạc của ái dục để rồi trầm luân trong sáu nẻo luân hồi chịu không biết bao nhiêu là sự đau khổ triền miên không lối thoát, vậy là kẻ trí hay người ngu? Người nhận thức được nguồn mê nơi tâm, lo bồi dưỡng đức tánh thiện tâm mỗi ngày mỗi sáng, dũng mãnh phát đại bi tâm cắt đứt tình ái si mê, ích kỷ riêng tư; lấy sự cứu khổ chúng sanh làm sự nghiệp nhân hạnh xuất thế, người như vậy là trí hay ngu? Thế gian lấy ngũ dục làm sự vui cho cuộc sống, nên bị đau khổ trong sự sống mà không thoát ra được. Vì lấy dục lạc làm hạnh phúc tạm bợ nên khi nhìn thấy một kẻ cắt ái từ thân, cắt tóc xuất gia thì họ cho là kẻ vô trí ngu si; tại sao lại bỏ đời thơ mộng hạnh phúc mà tìm nơi khổ xác; nếu trong gia đình có người phát tâm xuất gia họ lại tìm cách ngăn cản (có người quan niệm những kẻ đi tu là vì không có khả năng tạo dựng sự nghiệp ở đời, hoặc vì thất bại tình ái...). Vì sao? Vì tâm trí mê mờ điên đảo nên lầm tưởng chỉ có tận hưởng dục lạc của ngũ dục ở thế gian là hạnh phúc nhất. Không tự nhận biết rằng những thứ mà họ đang hưởng thụ là kết quả cửa sự đau khổ, mà, cũng là nguyên nhân gây nên sự đau khổ cho ngày mai. Ta hãy nhìn lại chung quanh cuộc đời ở thế gian này có mấy ai được tạm gọi là hạnh phúc an vui gọi là vừa ý, dầu rằng thứ hạnh phúc ấy chỉ là tạm bợ vá víu trong nhất thời. Nhận thấy được mê tâm là cội nguồn của ác nghiệp nên hãy dũng mãnh mà vứt bỏ những ác duyên, vượt thoát ra ngoài phạm trù đối đãi thường tình thế nhân để đạt đạo giải thoát; được như vậy mới thật sự là người đại trí, nhận thức rõ được thiện ác quả báo vốn vô tình cảm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/02/2011(Xem: 6492)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
02/02/2011(Xem: 2970)
Thời thiền sư Nam Tuyền … Nhà Đông nhà Tây tranh nhau một con mèo. Nam Tuyền thấy liền đề khởi: “Nói được thì không chặt”. Chúng không nói được. Nam Tuyền chặt con mèo làm hai khúc. Người xưa giải thích : Hàng Tông sư một động một tịnh, một ra một vào, hãy nói ý chỉ thế nào? Câu chuyện chặt con mèo, trong tùng lâm khắp nơi bàn tán xôn xao. Có người nói: “Chỗ đề khởi liền phải”. Có người nói: “Ở chỗ chặt”. Hoàn toàn không dính dáng!
24/01/2011(Xem: 14545)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
22/01/2011(Xem: 3176)
Sự tự biến hiện, chưa bao giờ hiện hữu trong trạng thái đối tượng, được nhìn thấy một cách sai lầm trong trạng thái một đối tượng. Qua vô minh, tự nhận biết sáng tỏ bị trải nghiệm một cách sai lầm trong trạng thái một ‘tôi’. Qua tham ái với nhị nguyên đối đãi chủ thể và đối tượng, chúng ta bị trói buộc trong thế giới phan duyên. Mong là gốc rễ của lầm lẫn được tìm thấy. --The Third Karmapa, Đại Thủ Ấn: Vô lượng Hoan hỉ và Tự do.
18/01/2011(Xem: 2800)
Thế giới đang hiện hữu trước mặt chúng ta đây là do duyên khởi, hay duyên sanh, nghĩa là do nhiều nhân duyên hợp lại mà có mặt. Một vật trước mặt chúng ta hiện giờ là do nhiều yếu tố mà có mặt: năng lượng, những hạt, bốn lực, tốc độ, nhiệt độ, trường không-thời gian… và tất cả những tương tác với chung quanh. Đó là chưa kể đến sự sống và ý thức tác động lên nó như thế nào.
17/01/2011(Xem: 13652)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình an và hạnh phúc.
11/01/2011(Xem: 5458)
Nền tảng của những sự thực tập Phật Pháp chính yếu không nên thay đổi. Thí dụ căn bản của Bồ Đề Tâm (tâm đại bi) [thái độ vị tha của việc cố gắng vì Phật Quả như một phương tiện để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh] và tính không [nền tảng thiết yếu của tâm thức và mọi thứ ] sẽ luôn luôn được đòi hỏi cho những hành giả. Tuy thế, nhằm để tiếp nhận cốt lõi của những sự thực tập này, những chi tiết thứ yếu của chúng - chẳng hạn như trình tự của những con đường [tu tập] mà trong đấy chúng được tiếp cận, những sự quán tưởng đặc thù liên hệ với chúng và v.v… - có thể được thay đổi một cách thiện xảo tùy theo tinh thần khác biệt của những người tiếp xúc.
08/01/2011(Xem: 6298)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổ và thất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
05/01/2011(Xem: 4584)
Kinh Hoa Nghiêm cho thấy Đức Phật ngồi ở Bồ-đề đạo tràng đi sâu vào đại Thiền định, chứng được Tam Minh. Ngài biết được những kiếp quá khứ của Ngài và thấy sự tiến hoá của các pháp bắt nguồn từ ngũ ấm, tiến đến quốc độ và tạo thành chúng sanh. Và từ thân con người của một hữu tình chúng sanh, Ngài đã từng trải qua nếp sống tu khổ hạnh của Thanh văn, rồi tu hành quán pháp nhân duyên theo Duyên giác. Và sau cùng Ngài hành Bồ-tát đạo, cứu độ chúng sanh và chứng được Như Lai thân, một thân viên mãn bừng sáng trí tuệ, gọi là Trí thân.
05/01/2011(Xem: 3219)
Nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba của Tây lịch. Nhưng từ đó đến nay, quả vị giác ngộ của Phật vẫn luôn luôn là thách thức lớn nhất đối với nhân loại – không phải vì quả vị ấy huyền bí, siêu hình hay không thực tế, mà vì mảnh đất thực tiễn của tâm ấy ít ai thử bước vào, thử nếm, thử trải. Do đó sự giác ngộ của Phật mãi mầu nhiệm trong ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567