Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Di Đà Thánh hiệu tâm bất thối

13/04/201203:21(Xem: 9361)
09. Di Đà Thánh hiệu tâm bất thối

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Di Đà Thánh hiệu tâm bất thối

Chúng ta đã biết niệm Phật tinh chuyên, vãng sanh Tây Phương liền được ba quả vị bất thối; đây nói thêm về tâm bất thối.

Trong lúc niệm phật bất luận là tâm của chúng ta định tâm niệm Phật hay tán loạn tâm niệm Phật, dụng tâm niệm Phật hay vô tâm niệm Phật đều được công đức vô lượng vô biên. Trong lúc chúng ta niệm Phật, miệng niệm tai nghe mấy chữ Phật hiệu in sâu vào tàng thức của chúng ta và trở thành chủng tử của Phật đạo vĩnh viễn không bị mất. Từ nơi nhân lành này giả như trong hiện đời không được vãng sanh Tây Phương vì công phu của tín, hạnh, nguyện chưa tròn; thì dầu cho trải qua trăm đời ngàn kiếp hạt giống phật này cũng sẽ nằm im khi gặp cơ duyên thuận lợi thì sẽ nẩy mầm và sanh trưởng trong tương lai, và, con đường Phật đạo sẽ sẵn sàng đón chờ chúng ta.

Nên biết Thánh hiệu Di Đà công đức vô lượng vô biên, một khi tai đã nghe, miệng đã niệm thì tấm bất thối đối với đạo quả bồ đề. Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngày nọ có một ông lão trên 70 tuổi đến gặp các vị đại đệ tử, đaị diện là ngài Xá Lợi Phất cầu xin xuất gia. Các vị đại đệ tử này hầu hết đã chứng quả A La Hán, nhìn thấy được chúng sanh lưu chuyển trong vòng sanh tử của 80 ngàn đại kiếp; liền dùng huệ nhãn xem xét trong 80 ngàn đại kiếp thấy cụ già này không có một chút thiện căn nào đối với Phật pháp, nên đã không chấp nhận cho xuất gia. Cụ già ra về với tâm chí buồn rầu, đến cổng tịnh xá gặp Phật, Phật hỏi căn nguyên; sau đó Thế Tôn chấp nhận cho cụ già xuất gia, và, bảo cho chúng hội biết rằng ông già này ở nơi 80 ngàn đại kiếp về trước đã có kết một chút duyên lành đối với Phật pháp, từ đó đến nay tậm không thối chuyển dầu cho đã sanh tử bao phen trong sáu đường; nay đủ duyên xuất gia tu học đạo, đoạn trừ được phiền não và sẽ chứng được quả vị A La Hán.

Nay ta kể lại chủng tử lành ấy cho các ông nghe: vào thuở 80 ngàn đại kiếp về trước ông là một gã tiều phu hằng ngày lên núi đốn củi, một bữa nọ vừa mới vào rừng gặp ngay một con cọp lớn; ông quá sợ nhảy lên cây cao để tránh, và, vì quá hoảng sợ nên lúc ở trên cây cao ông đã to tiếng niệm “Nam Mô Phật”. Do nơi sự niệm Phật này mà duyên lành đã kết tụ làm cho tâm ông bất thối nơi đạo quả bồ đề cho đến ngày hôm nay gặp ta cầu xin xuất gia học đạo”.

Cũng vậy, trong khinh Pháp Hoa ở phẩm phương tiện thứ hai có đoạn

“Nhược nhơn tán loạn tâm

Nhập ư tháp miếu trung

Nhứt xưng Nam Mô Phật

Giai dĩ thành Phật đạo”.

Có nghĩa:

Giả như có người tâm tán loạn

Khi bước vào trong chùa tháp

Miệng một lần niệm Phật

Tức đã thành tựu phật đạo.

Giống như hiện đời thế gian chúng sanh không do tín, hạnh, nguyện niệm Phật cầu vãng sanh, mà, chì vì một tai nạn, buồn khổ đưa đến: bão lụt, chiến tranh, động đất, núi lửa, giặt cướp... liền to tiếng niệm danh hiệu “A Di Đà Phật” hay “Quán Thế Âm Bồ Tát” tức thời chủng tử Phật đạo liền ẩn tàng trong tâm thức đến khi đủ duyên sẽ sanh trưởng, thành tựu Phật đạo đây gọi là tâm bất thối.

Người không dụng công cầu vãng sanh mà niệm Phật còn đạt được công đức vô lượng như thế; huống chi nay chúng ta gia công niệm với tín, hạnh, nguyện đầy đủ. Mỗi ngày hai thời tối sớm từ hai ngàn đến năm ngàn câu Phật hiệu, hoặc nhiều hơn; kèm theo bên cạnh ăn chay, tụng kinh, giữ giới, lễ Phật, sám hối, thọ bát quan trai; như thế thì sự tu trì và công đức của chúng ta không lý do gì mà không sanh về nơi cảnh Tây Phương để gặp Phật Di Đà. Nếu chúng ta niệm Phật đến khi tâm bất loạn thì việc vãng sanh chắc chắn là đã có phần. Tâm bất loạn nghĩa là như thế nào? Nhứt tâm bất loạn gồm có hai: sự nhứt tâm và lý nhứt tâm. Niệm Phật đạt đến sự nhất tâm bỏ Ta Bà sanh Tây Phương là đạt “vị bất thối” gọi là phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ: tức chúng ta dầu cho lả một kẻ phàm nhân còn mang nghiệp báo nhưng khi đã đới nghiệp vãng sanh thì liền cùng với Thánh chúng Bồ Tát cùng ở một quốc độ. Niệm Phật đạt đến lý nhất tâm tức được “niệm bất thối” là thể nhập được thật báo trang nghiêm quốc độ, là cùng với chư Phật Bồ tát an trụ trong Pháp thân.

Tuy chúng ta là phàm phu niệm Phật chưa chứng được sự lý nhất tâm, nhưng tinh chuyên cầu niệm danh hiệu Phật thì nhất định sẽ được tâm bất thối, nếu cộng thêm tín, hạnh, nguyện thì nhất định sẽ được sanh Tây Phương gặp Phật Di Đà. Do sự thù thắng này mà chúng ta hãy nên chuyên tâm thường xuyên niệm Phật. Đừng lo niệm Phật có thể vãng sanh được Tây Phương hay không? Mà chúng ta hãy lo niệm phật có đầy đủ tín, hạnh, nguyện hay không mà thôi! Nếu tín, hạnh, nguyện đầy đủ vững chắc thì việc sanh Tây Phương là điều không khó, hãy tin tưởng mà hành trì, đừng nghi ngờ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2011(Xem: 4411)
Ở Tây Tạng nhiều đại hành giả sưu tập những sự thực hành tâm linh đưa đến giác ngộ trong một bộ sách gọi là Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ. Những giáo huấn hùng hồn về Đức Phật từ bi kể rõ chi tiết một loạt những sự thực hành mà một người may mắn có thể sử dụng cho việc rèn luyện nhằm để đạt đến giác ngộ. Các ngài chắt lọc những kinh luận Đạo Phật bao la và vô hạn mà không hy sinh bản chất tự nhiên hay sự sắp đặt cốt lõi của chúng.
17/12/2011(Xem: 3998)
Ngài Long Thọ mở đầu Trung Luận bằng một bài tụng kính lễ Đức Phật giảng lí tính duyên khởi và tịch lạc của niết bàn.
13/12/2011(Xem: 5088)
Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán song tu. Ba pháp này dựa vào ba khả năng của tâm thức con người: Sự tập trung (Chỉ), sự quan sát có khi cộng thêm với sự tưởng tượng (Quán), và thực hành cả hai cái ấy cùng một lúc. Quán là quán sát (to examine), quán tưởng (to visualize), tưởng tượng (to imagine); các học giả Tây phương dịch chữ Quán bằng ba động từ này. Mục đích của thực hành quán là để thấy sự thật vô ngã và vô pháp.
27/11/2011(Xem: 6193)
“Từ bi là căn bản”, đây là lời nói viên mãn chính xác, là tâm tuỷ của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt được nội dung chân thật của Phật giáo. Vì vậy tín đồ của Phật giáo Đại thừa nên tư duy nghiêm mật, nắm bắt thiết thực nhất!
26/11/2011(Xem: 5226)
Ba la mật thứ tư: Tinh tấn Tsöndruthường được dịch là “tinh tấn.” Tuy nhiên, trong văn cảnh của Phật giáo, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó không chỉ hàm ý sử dụng nỗ lực và cần cù mà còn là cảm nhận sự thích thú và nhiệt tâm đối với các thiện hạnh.
23/10/2011(Xem: 10222)
Khi người ta đến để nghe tôi giảng, nhiều người làm như thế với mục tiêu đón nhận một thông điệp hay một kỹ năng cho việc bảo vệ niềm hòa bình nội tại và cho việc đạt đến một sự thành công trong đời sống. Một số người có thể đơn giản biểu lộ sự tò mò, nhưng điều quan trọng nên biết là tất cả chúng ta giống nhau, tất cả là những con người. Tôi không có gì đặc biệt: tôi chỉ là một ông thầy tu giản dị. Chỉ là một con người. Và tất cả chúng ta đều có khả năng cho những điều tốt đẹp cũng như những điều xấu xí. Cũng thế, tất cả chúng ta đều có quyền để hướng dẫn những đời sống hạnhphúc. Điều này có nghĩa là những ngày và những đêm vui vẻ; trong cách này, đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc.
19/10/2011(Xem: 4800)
Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ. Bài thuyết pháp ấy không lời. Khi Đức Thế Tôn bước từng bước chân an lạc trở về Vườn Nai, các vị trong nhóm ông Kiều Trần Như đã tiếp nhận được ánh sáng hạnh phúc đó và đã chuyển hóa được năng lượng tiêu cực đang phát khởi trong tâm bằng cách quỳ dài xuống đất để đón tiếp.
13/10/2011(Xem: 4926)
Phần lớn các nhà nghiên cứu Tây phương vào thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Nguyên thủy được sưu tập và phiên dịch bởi những học giả có định kiến Phật giáo là ‘một tôn giáo trốn lánh đời và tiêu cực thụ động’. Họ bỏ qua những hoạt động của một số tăng già trong các phong trào chánh trị “chống thực dân ’ ở các quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á và có lẽ xem các nhà sư liên hệ đến chính trị là những ‘chuyên viên quấy rối’. Ở Tây phương từ ngữ Phật giáo nhập thế chỉ mới xuất hiện gần đây.
12/10/2011(Xem: 7218)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
04/10/2011(Xem: 4038)
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]