Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Dẫn nhập

21/07/201207:45(Xem: 9382)
II. Dẫn nhập

Những bảnvăn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếngĐức ra tiếng Việt
cóso sánh với tiếng Nhật

2. Dẫnnhập

2.1. Nội dung và sự sắp đặt của tác phẩm nầy

Tác phẩm nầy nhằm mụcđích giúp bổ túc cho sự thiếu thốn, mà cho đến nay những tài liệu cốt yếu thuộcvề tín ngưỡng lớn nhất của Phật Giáo Nhật Bản thuộc “Tịnh Độ Giáo” vẫn chưa đượcphổ biến hoặc chỉ nằm ở hình thức nơi tiếng Đức cổ xưa.

Đây là những bản dịch giớithiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh ĐộNhật Bản. Với ý định nầy, tiểu sử với những bối cảnh phía sau những văn bản nầyphải được làm sáng tỏ; cho nên ở chương thứ 2 và chương thứ 3 sẽ giới thiệu vềviệc truyền thừa Tịnh Độ giáo từ Ấn Độ đến Trung Hoa rồi đến Nhật Bản cùng vớisự biến đổi sẽ được giới thiệu ngắn.

Hình thức tuyển chọn nhữngbài văn chỉ có giới hạn, mà lại yêu cầu có sự toàn hảo thì quả là điều vô vọng.Mục đích của quyển sách nầy là để phổ biến những tài liệu trình bày về nhiều mặtcủa giáo lý để bổ túc cho nhau. Như vậy những điểm chính yếu khác nhau về nộidung của những bản văn, cũng như những loại bài đại diện khác đã được quan tâm.Bên cạnh “những tác phẩm hàn lâm” như thủ bút của Thân Loan về Giáo, Hạnh, Tín,Chứng cũng sẽ được trở thành đại chúng hóa và những lá thư cũng đã được giảibày. Đây là một trong những điều cốt yếu về sự thành tựu của Phật Giáo Tịnh Độ,vì đã truyền bá đến với quần chúng và tìm cách làm cho họ hiểu được giáo lý PhậtGiáo.


Sự sắp đặt góp nhặt từng điểm một:

Chủ yếu của bài văn đầutiên là “lời dạy cuối cùng” của vị sáng Tổ Tịnh Độ Tông, Ngài Pháp Nhiên(1133–1212); trong ấy lời dạy của Ngài đã được tóm lược lại.

Bài văn thứ hai “tam bộkinh đại ý” sẽ hiểu rõ 3 kinh nầy qua Ngài Pháp Nhiên và ở đó xây dựng được tổngthể về niềm tôn kính Đức Di Đà (Xem chương tiếp sau).

Bài văn thứ ba là “Chánhtín niệm Phật kệ” xuất xứ từ đệ tử của Ngài Pháp Nhiên là Thân Loan (1173–1262);người chủ quan trọng nhất trong niềm tin nầy. Ngài đã cho chúng ta một cái nhìntổng thể về truyền thống của Tịnh Độ đồng thời giáo lý cũng chứa đựng một luậnđề riêng biệt tối quan trọng.

Bài văn thứ tư được đưara là quyển “Duy Tín Sao văn ý” chỉ với đầu đề theo sự bình luận của Thân Loanviết chung thành “Duy Tín Sao” là một nghệ thuật đương thời. Trên thực tế, đâylà những đoạn văn trích dẫn của Thân Loan để giải thích về những điểm chính vàkhái niệm về giáo lý của Ngài trong những chữ giản đơn cho những tín đồ chẳng cókiến thức cao.

Bài văn thứ năm chủ yếulà tác phẩm chính của Thân Loan về “Giáo, Hạnh, Tín, Chứng” và bài văn nầy vì vậyvới phạm vi to lớn kia chỉ trích đoạn để đưa ra. Nơi đó những điều chính yếu củaThân Loan đã được trích ra để giải thích rõ ràng hơn. Trong khi phần lớn nhữngnguồn được trích dẫn là sự hợp thức hóa quan điểm của Ngài và chỉ những trườnghợp tuyển chọn quan trọng mới được dịch ra.

Bài văn thứ sáu là quyển“Thán Dị Sao”, khởi nguồn từ đệ tử của Ngài Thân Loan là Duy Viên. Ở trong đó mộtvài điểm có thể - nghĩa là sự thật, lấy từ những lời dạy sai khác của Thân Loanđược sửa đổi lại. Điều nầy cho thấy rằng những sự khó hiểu kia đi chung với niềmtin mới về sau như thế nào?

Đoạn cuối của phần sưu tậplà những thư từ và “ lời dạy cuối cùng” do Nhứt Biến (1239-1289), sáng Tổ củaThời Tông gom lại. Nơi đó đã trình bày những điểm khác nhau về những lời dạy củaChi nhánh nầy về truyền thống Tịnh Độ của Nhật Bản.

Để hoàn thành tác phẩm nầynên lưu ý trong lời tựa với mục đích dẫn nhập, vào những bản văn và phải hiểu rằngnó không phải là sự nghiên cứu riêng thuộc về lãnh vực khoa học, vì vậy khôngcó phần ghi chú. Trong phần dịch thuật của ghi chú với mục đích chính là giảithích những khái niệm không đơn giản để cho những người không phải là những nhàPhật học hoặc ngay cả những người không phải là Nhật Bổn học có thể hiểu đượcvăn bản. Nếu thảo luận một cách rộng rãi tiếp tục tham cứu thêm những bài vở khácthì khuôn khổ của quyển sách sẽ quá mức; cho nên rất tiếc là phải được bỏ đi.Những danh từ chuyên môn được bổ sung với sự giải thích bằng từ ngữ ở cuối quyểnsách nầy; bao gồm những danh từ gốc Nhật ngữ cũng như cách phiên âm.

Sự ghi âm những chữ Nhậtđược thực hiện qua cách Hepburn (chữ La Mã). Vì lý do kỹ thuật nên dấu ngang phảithay thế bằng dấu hiệu “^”. Những chữ Hán được viết lại theo lối phiên âm (BìnhÂm) và những chữ Ấn Độ thì theo cách thông dụng trong Ấn Độ học. Ở nơi một vài danhtừ chính (“Ein Herz”, “Ursprüngliches Gelöbnis”) các tỉnh từ được viết lớn ở đầuđể nhấn mạnh đây là một khái niệm và ý nghĩa của nó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 10828)
Nói chung, ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộ mà chúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị. Có những cõi Tịnh Độ ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, và ở trung tâm. Trong số đó, cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà là nơi dễ đến nhất và vì thế rất đặc biệt.
22/04/2013(Xem: 7064)
Ðạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu, là một biện chứng giải thoát, một con đường giải thoát. Giải thoát hết phiền não, hết bát khổ, ra ngoài tam giới tức là cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Chân lý mà Ðức Phật diễn giải rất là hiển nhiên dễ dàng, nhưng cũng rất là huyền nhiệm mênh mang. Chân lý ấy có thể thu gọn trong một chữ Tâm hay chữ Như cũng được, nhưng nếu giải ra nói suốt một kiếp cũng chưa hết.
22/04/2013(Xem: 6047)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ. Lắng nghe càng rõ sức tam muội càng tự tập trung, tự thanh tịnh. Thanh tịnh càng rõ ràng càng tăng trưởng trí tuệ.
22/04/2013(Xem: 11568)
Tôi là một cư sĩ, tuy không phải là tu sĩ, nhưng tôi đã dành suốt 12 năm còn lại của đời tôi, với mỗi ngày 12 tiếng đồng hồ để học hỏi, nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Trong 12 năm này, tôi hầu như chấm dứt sự giao thiệp với bạn bè, hội hè, không đọc báo chí, không xem Tivi và nghe radio.
22/04/2013(Xem: 6430)
Người dòng Bà La Môn ở nước Thiên Trúc. Vào thời đại xa xưa, tại nước A Thâu Sa của xứ Thiên Trúc (vì nước Thiên Trúc vào thời cổ có 16 nước lớn) có một người dòng Bà La Môn (không thấy nói tên họ), anh chàng này bẩm tánh chân thật, nhưng ngu si vô trí lại khổ một nổi là tâm nhiễm ái thiên trọng, nên anh đối với vợ yêu thương quá mức, với tình chồng vợ không biết chán nhàm.
22/04/2013(Xem: 5240)
Về nhà chỉ có một lối, nhưng phương tiện thì có nhiều ngả. Phật dạy có nhiều pháp môn tu, nhưng chuyên tu một pháp môn nào cũng đều được liễu ngộ cả.
22/04/2013(Xem: 5351)
Phật! Phật! Phật! Tâm! Tâm! Tâm Thức! Thức! Thức! Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh. Ðó là hai câu thơ của ngài Thượng Sỹ Tuệ Trung, một vị công hầu đời Trần, đã từng cầm quân chống giặc Nguyên, sau bỏ đi tu Phật để suy ngẫm về cái hiện tượng của Tâm và cái lẽ của Thiền.
22/04/2013(Xem: 8109)
Trước khi đi vào phần trình bày phương pháp quán tưởng Niệm Phật, chúng tôi sẽ giới thiệu vài nét về các kinh điển liên quan đến pháp môn niệm Phật. Quán tưởng niệm Phật là một trong những phương pháp niệm Phật mà người ta thường hành trì, tùy theo khả năng vận dụng của mỗi người mà kết quả có sự sai biệt.
22/04/2013(Xem: 5537)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà, điều đó được nói trong 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng (Dharmakara), tiền thân của Ngài.
22/04/2013(Xem: 6520)
Theo gương Sư trưởng, bằng tấm lòng thiết tha phụng sự Đạo pháp và chúng sanh, đệ tử chúng con đã kết tập những lời chỉ dạy của Thầy về pháp "Thiền Tịnh Song Tu" và ấn tống quyển sách này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]