Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Hạnh buông xả

07/08/201102:51(Xem: 9655)
1. Hạnh buông xả

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG
Trần Kiêm Đoàn

1. Hạnh buông xả

Chỉ còn một tháng nữa là hết mùa An Cư Kiết Hạ theo truyền thống Phật giáo hàng năm. Ngày cuối của mùa an cư kết thúc vào rằm tháng Bảy. Nắng giao mùa của Thu sang phai màu làm nhớ Mẹ. Những người theo đạo Phật thường chọn thời điểm nầy để tu học và làm công quả. Sống ở xứ Mỹ đã ba chục mùa Kết Hạ mà tôi chưa được lần nào "có duyên" đến chùa chiêm bái bầu không khí An Cư đượm nhuần đạo vị như thời còn ở Huế. Hoàn cảnh thay đổi, đất trời còn thay đổi theo; huống chi là khói sương của một chân trời cũ. Tìm đâu ra một tiếng chuông chùa hay chuông nhà thờ theo gió Nồm đồng vọng trên xứ Mỹ quạt nhiều hơn gió nầy.

Người Mỹ có vẻ thực tế hơn người Việt khi cho rằng, về hưu không phải là gác kiếm xoa tay quy ẩn mà đây là một cơ hội quý báu cuối đời để được sống và làm những điều mình thích, nhưng khi còn đa đoan với chuyện áo cơm chưa làm được. Như có một mùa Hè đã lâu lắm, gặp Trịnh Công Sơn ngồi quán cà phê Tôn Thành Nội Huế để mơ… dễ sợ. Mơ khi đất nước thanh bình sẽ đi thăm cầu gãy vì mìn và thăm mộ bia đều như nấm! Tôi thì không thế. Cũng là một gã “con trai của mạ” xứ Huế thơ mộng, tộng bộng hai đầu, đang lên lão nhưng lại mơ đi thăm lại thế giới của mình. Thế giới nhỏ bé riêng của tôi bắt đầu từ ngôi chùa làng đổ nát và bà mẹ quê trên Quê Mẹ. Đời tha hương của tôi bắt đầu từ thành phố Baton Rouge. Hình ảnh “Cây Gậy Đỏ” mang bóng dáng của ông Tây Nhà Đèn hơn là chú Sam Cao Bồi Texas xứ Mỹ.

Ba mươi năm chưa về thăm lại Baton Rouge, tôi không còn nhớ thành phố đầu tiên cưu mang gia đình tôi trên đất Mỹ giờ như thế nào. Ngày ấy, từ trại tạm cư Bataan, Phi Luật Tân, chúng tôi đến Mỹ theo diện “đầu trọc”; nghĩa là không có ai quen biết hay bà con thân thích đón nhận giúp đỡ bước đầu. May được Hội Chiến Sĩ Baton Rouge nhận bảo trợ. Ba mươi năm trước, gia đình tôi đặt chân xuống xứ Baton Rouge lạ hoắc vào một đêm tối trời mùa Thu. Gia đình các anh chị trong hội Chiến Sĩ đến đón tận phi trường. Từ bác Nguyễn Văn Chuân, các anh Lê Bá Khiếu, Trần Huệ, Vũ Quốc Công đến các bạn Nguyễn Văn Hạnh, Trần Bé, Cáp Côi… là những cựu chiến sĩ cấp tướng, cấp tá, cấp úy, cấp sỹ vang bóng một thời; sau cuộc đao binh, nay làm từ thiện. Khi ngồi viết những dòng nầy trên American Airline từ Sacramento về Baton Rouge, nhắc đến cảnh cũ, người xưa tôi bỗng cảm thấy bâng khuâng với nỗi buồn lay lắt khi đếm lại các anh chị trong Hội Chiến Sĩ Baton Rouge đã ra đi gần một nửa. Ai cũng biết “nhân sinh tự cổ thùy vô tử” nhưng vẫn tự hỏi, đời gặp nhau có mấy lần vui và sẽ được mấy lần còn gặp lại. Nên càng già, nếu gặp được nhau thì phải đừng giận, bớt trách, ít cãi, thêm khen, lắng nghe, đừng chê và tìm đến nhau với cái tâm buông xả.

Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu. Buông xả là không chấp thủ, không nắm giữ. Không nắm giữ tiền tài, danh lợi, vật chất khó nhưng mà dễ vạn lần hơn buông bỏ những ý nghĩ đã chồng chất thành núi, thành đồi, thành vết sẹo trong tâm mà người ta thường gọi là định kiến, là cố chấp, là chấp trước. Đây chính là thủ phạm gây nên phiền não và đau khổ. Vũ trụ và con người thì thay đổi từng nháy mắt mà người ta thì cứ khư khư nắm giữ mãi cái nhìn, cái nghĩ về một đối tượng sự việc hay con người nào đó từ ba bốn mươi năm trước. Người ta lôi những bóng ma đã lụi tàn trong quá khứ và đuổi bắt những bóng quái ảo ảnh của tương lai mà quên mất hiện tại. Người ta ngỡ mình đang đánh đấm tơi bời một “đối thủ” – hoang tưởng –mà mình cho là gian ác, là kẻ thù nào đó hay ca tụng hết lời một nhân vật quá vãng mình cho là kiệt hiệt anh hùng, nhưng thật ra là đang mò trăng đáy giếng!

Bởi vậy, trong Lục Độ Ba La Mật của đạo Phật thì hạnh Bố Thí đứng đầu. Bố thí không chỉ là cho mà còn là buông xả. Tay cho mà tâm không cầu; cúng dường mà lòng không mong đợi mảy may một hạt bụi khen chê. Buông xả là cánh cửa đầu tiên không khóa, không cài để bước vào các hạnh khác. Không buông xả thì tâm chưa sẵn sàng bố thí. Nhích bước đi đâu mà khỏi bị vướng víu khi lối về lại với chính mình vẫn còn cửa đóng then gài.

“Trẻ khôn qua, già lú lại”, cổ nhân Việt Nam đã từng ngắm nhìn và suy nghĩ đến bạc đầu khi nói lên hình ảnh trung thực mà xót xa nầy. Cũng đành buông tay trước dòng chảy một chiều “sớm như tơ mà tối đã như sương” của thời gian thôi! Tôi đang quên dần tên những con đường đã đi qua và tên những người bạn đã gặp. Không buồn, không vui trước sự mất còn; không vất đi oan uổng, không níu lại tiếc thương mới mong học được bài vở lòng của hạnh buông xả. John Milton tin có một Thiên Đường nên đã dày công đến mù mắt soạn nên thiên anh hùng ca Thiên Đường Đã Mất – Paradise Lost – trong khi mất hay còn cũng chỉ là một không hai đối với người thực hành hạnh buông xả.

Hôm nay, về lại thành phố ba mươi năm trước, với cái tâm cố hướng tới nhưng vẫn còn quá nhiều vướng mắc, mong học chút hương hoa về hạnh buông xả, tôi đi lặng lẽ như một chiếc lá rơi trên đường vắng đang vào Thu. Chẳng mong, chẳng cầu, chẳng đợi; không lấy, không cho… Tôi chỉ muốn tìm lại chính mình. Chuyến đi mở đầu như một cuộc hành hương tâm lý. Những dòng nhật ký tiếp theo sẽ ghi lại những gì tôi sẽ gặp trên đường hành hương vạn lý mà thật ra muôn kiếp cũng chỉ là sự lập đi lập lại tấm thân nầy. Nếu không tìm ra một lối bứt phá hay một ngã rẽ thuận dòng thì giờ đây cũng sẽ là mãi mãi. Về đâu theo lối mòn đơn điệu. Về đâu mà cứ trôi lăn hoài. Dừng chân ở chốn nào đây hay long đong bước dài thêm mỏi nản.

Trần Kiêm Đoàn
Baton Rouge, 28-7- 2011
Chùa Tam Bảo
Baton Rouge, LOUISIANA 7-2011
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4539)
Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.
30/10/2010(Xem: 4622)
Trước tiên chúng ta phải học “giới học” để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao?
29/10/2010(Xem: 5378)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
26/10/2010(Xem: 4610)
Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”.Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu. Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.
23/10/2010(Xem: 10500)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
22/10/2010(Xem: 4714)
Mỗi một trong vô lượng cuộc đời của chúng ta từ vô thuỷ, chúng ta phải có những bậc cha mẹ. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi một chúng sinh duy nhất hẳn đã từng là mẹ hay cha của ta. Khi chúng ta nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh này - những người từng là cha mẹ của chúng ta - đã phải lang thang quá lâu và không người cứu giúp trong vòng luân hồi sinh tử giống như những người mù lạc đường, thì chúng ta không thể không cảm thấy một lòng bi mẫn lớn lao đối với họ. Tuy nhiên, tự bản thân lòng bi mẫn thì không đủ; họ cần sự giúp đỡ thực sự.
22/10/2010(Xem: 5403)
Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
21/10/2010(Xem: 4991)
Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.
19/10/2010(Xem: 5270)
Một lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch...
16/10/2010(Xem: 5132)
Bạn đã được giới thiệu về “phương châm tu tập”, “ý nghĩa của Sám hối”, và “tâm Bồ đề”. Đó chính là những hành trang cần thiết, quan trọng để xây dựng những nhận thức căn bản và thực tiễn cho cuộc sống hạnh phúc cũng như cho cuộc hành trình tâm linh của bạn. Khi đã có đầy đủ những hành trang cần thiết cho tư duy và hành động rồi, bây giờ là lúc bạn có thể đi vào thực tập những pháp môn căn bản không phải để có ý niệm về hạnh phúc hay để lí luận về hạnh phúc, mà để “sống hạnh phúc” ngay bây giờ và ở đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]