Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27-Tìm Chúa

29/06/201115:25(Xem: 5659)
27-Tìm Chúa

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 27
Tìm Chúa

Một trong nhiều vấn đề mà tất cả chúng ta phải đương đầu, và đặc biệt những người đang được giáo dục và sắp sửa phải vào đời và đối diện với thế giới, là vấn đề của đổi mới. Nhiều nhóm người khác nhau – những người xã hội, những người cộng sản, và những người đổi mới thuộc mọi loại – đang quan tâm đến việc cố gắng làm những thay đổi nào đó trong thế giới, những thay đổi mà rõ ràng là cần thiết. Mặc dù trong vài quốc gia có được một mức độ thịnh vượng kha khá, khắp thế giới vẫn còn tình trạng đói khát, thiếu thốn lương thực và hàng triệu con người đang không có đủ quần áo và không nơi thích hợp để ngủ. Và làm thế nào một cuộc cách mạng cơ bản xảy ra mà không tạo ra nhiều hỗn loạn, thêm nhiều đau khổ và xung đột? Đó là vấn đề thực sự, phải vậy không? Nếu người ta đọc một chút ít lịch sử và quan sát những khuynh hướng chính trị hiện nay, nó trở nên rất rõ ràng rằng điều mà chúng ta gọi là đổi mới dù được khao khát và cần thiết bao nhiêu, luôn luôn vẫn còn tiếp theo những hình thức khác của rối loạn và xung đột; và để chận đứng sự đau khổ thêm nữa này, nhiều luật pháp, nhiều kiểm soát và kiểm soát ngược lại trở nên cần thiết. Đổi mới tạo ra những vô trật tự mới; khi đưa những sự việc này vào trật tự, vẫn còn những vô trật tự thêm nữa được sinh ra, và vì vậy cái vòng lẩn quẩn cứ tiếp tục. Đây là điều gì chúng ta bị đối diện, và nó là một qui trình dường như không có kết thúc.

Bây giờ làm thế nào người ta có thể phá vỡ cái vòng lẩn quẩn này? Bạn nên nhớ rằng, đổi mới rõ ràng là cần thiết; nhưng liệu có thể thực hiện đổi mới mà không mang lại rối loạn thêm nữa hay không? Điều này đối với tôi có vẻ là một trong những vấn đề căn bản mà bất kỳ một người biết suy nghĩ nào cũng quan tâm đến. Vấn đề không phải loại đổi mới nào cần thiết, hay ở mức độ nào, nhưng liệu có loại đổi mới nào có thể không tạo ra cùng nó những vấn đề khác mà lại nữa tạo thêm sự cần thiết phải đổi mới. Và người ta phải làm gì để phá vỡ cái qui trình vô tận này? Chắc chắn, đó là nhiệm vụ của giáo dục, dù trong một ngôi trường bé nhỏ hay trong trường đại học to lớn, để ngăn chặn vấn đề này, không phải một cách trừu tượng, theo lý thuyết, không phải chỉ đang triết lý hay viết những quyển sách về nó, nhưng bằng cách thực sự đối diện cùng nó để tìm ra cách giải quyết nó. Con người bị trói buộc trong cái vòng lẩn quẩn này của đổi mới và luôn luôn cần đổi mới thêm nữa và, nếu cái vòng lẩn quẩn này không bị phá vỡ, những vấn đề của chúng ta không thể giải quyết được.

Vì vậy, loại giáo dục nào, loại suy nghĩ nào là cần thiết để phá vỡ cái vòng lẩn quẩn này? Hành động nào sẽ kết thúc được sự gia tăng của những vấn đề trong tất cả những hoạt động của chúng ta? Liệu có bất kỳ chuyển động nào của tư tưởng, trong bất kỳ phương hướng nào, có thể làm tự do con người khỏi cảnh sống này, sự đổi mới mà luôn luôn cần đổi mới thêm nữa. Nói khác đi, liệu có một hành động không bị sinh ra từ phản ứng hay không?

Tôi nghĩ rằng có một cách sống mà trong đó không còn qui trình đổi mới tạo ra đau khổ thêm nữa này, và cách sống đó có lẽ được gọi là tôn giáo. Con người tôn giáo thực sự không quan tâm đến đổi mới, anh ấy không quan tâm tạo ra một sự thay đổi trong trật tự xã hội; trái lại anh ấy đang tìm kiếm sự thật là gì, và chính tìm kiếm đó có một ảnh hưởng thay đổi vào xã hội. Đó là lý do tại sao giáo dục phải quan tâm chính đến việc giúp đỡ em học sinh tìm ra sự thật hay Chúa, và không chỉ chuẩn bị cho em phù hợp vào cái khuôn mẫu của một xã hội đã bị quy định trước.

Tôi nghĩ rằng rất quan trọng phải hiểu rõ việc này trong khi chúng ta còn trẻ; bởi vì, khi chúng ta lớn lên và bắt đầu khước từ những vui chơi và những giải trí bé nhỏ của chúng ta, những ham muốn dục tình và những tham vọng tầm thường, chúng ta càng trở nên hăng hái ý thức được những vấn đề to lớn mà thế giới phải đương đầu, và rồi thì chúng ta muốn làm một điều gì đó về chúng, chúng ta muốn tạo ra một loại xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng nếu chúng ta không có tánh tôn giáo một cách sâu sắc, chúng ta chỉ tạo nhiều hỗn loạn thêm, nhiều đau khổ thêm; và tôn giáo chẳng có liên quan gì đến những vị giáo sĩ, những nhà thờ, những giáo đường hay những niềm tin có tổ chức. Những sự việc này không là tôn giáo gì cả, nó chỉ là những tiện nghi xã hội để kềm hãm chúng ta trong một khuôn mẫu đặc biệt của tư tưởng và hành động; chúng là những phương tiện để khai thác sự nhẹ dạ, hy vọng và sợ hãi của chúng ta. Tôn giáo là công việc tìm kiếm cái gì là sự thật, cái gì là Chúa, và tìm kiếm này đòi hỏi năng lượng vô hạn, thông minh tổng thể, suy nghĩ tinh tế. Chính là trong sự tìm kiếm cái vô hạn này mới có hành động xã hội đúng đắn, không phải trong cái tạm gọi là đổi mới của một xã hội đặc biệt.

Muốn tìm ra sự thật là gì phải có nhiều thương yêu và một ý thức sâu sắc về sự liên hệ của con người với tất cả sự việc và sự vật – mà có nghĩa rằng người ta không quan tâm đến sự tiến bộ và sự thành tựu riêng của người ta. Tìm kiếm sự thật là tôn giáo thực sự, và con người đang tìm kiếm sự thật là một con người tôn giáo thuần khiết. Một con người như thế, bởi vì tình yêu của anh ấy, đứng ngoài xã hội, và vì vậy hành động của anh ấy vào xã hội hoàn toàn khác hẳn hành động của con người ở trong xã hội mà quan tâm đến sự đổi mới nó. Người đổi mới không bao giờ tạo ra một văn hóa mới. Điều gì cần thiết là sự tìm kiếm của một con người tôn giáo thuần khiết, bởi vì chính tìm kiếm này tạo ra văn hóa riêng của nó và nó là hy vọng duy nhất của chúng ta. Bạn thấy không, tìm kiếm sự thật mang lại một trạng thái sáng tạo bùng nổ cho cái trí, mà là cách mạng thực sự, bởi vì trong tìm kiếm này cái trí không bị vấy bẩn bởi những luật lệ và trừng phạt của xã hội. Vì được tự do khỏi tất cả việc đó, con người tôn giáo có thể tìm ra cái gì là sự thật; và chính sự khám phá của cái gì là sự thật từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc mới sáng tạo một văn hóa mới.

Đó là lý do tại sao rất quan trọng để bạn có được loại giáo dục đúng đắn. Muốn thực hiện việc này chính người giáo dục phải được giáo dục đúng đắn để cho anh ấy sẽ không coi việc dạy học chỉ như là một phương tiện kiếm sống, nhưng sẽ có khả năng giúp đỡ em học sinh gạt đi tất cả những giáo điều và không bị ngăn cản bởi bất kỳ tôn giáo hay niềm tin nào. Những con người tụ họp với nhau dựa trên nền tảng của uy quyền tôn giáo, hay thực hành những lý tưởng nào đó, tất cả đều quan tâm đến đổi mới xã hội nhưng đó chỉ là công việc trang trí những bức tường nhà tù mà thôi. Chỉ có con người tôn giáo thực sự mới là con người cách mạng đích thực; và chức năng của giáo dục là giúp đỡ mỗi người trong chúng ta là một người tôn giáo đúng theo ý nghĩa thực sự của từ ngữ, bởi vì sự cứu rỗi của chúng ta chỉ nằm trong phương hướng đó.

Người hỏi: Tôi muốn làm công tác xã hội nhưng tôi không biết phải bắt đầu như thế nào?

Krishnamurti: Tôi nghĩ rất quan trọng khi tìm ra được không phải làm thế nào để bắt đầu, nhưng tại sao bạn muốn làm công tác xã hội. Tại sao bạn muốn làm công tác xã hội? Có phải vì bạn thấy sự đau khổ trong thế giới – chết đói, bệnh tật, bóc lột, sự dửng dưng tàn nhẫn của phía giàu có kinh ngạc kề bên phía nghèo khổ khủng khiếp, sự thù địch giữa con người và con người? Đó là lý do phải không? Bạn muốn làm công tác xã hội vì trong quả tim của bạn có tình yêu và vì vậy bạn không quan tâm đến thành công riêng của bạn phải không? Hay công tác xã hội là phương tiện tẩu thoát khỏi bạn? Bạn hiểu rõ không? Ví dụ, bạn thấy không, tất cả sự rắc rối đều liên quan đến hôn nhân truyền thống, nên bạn nói rằng, “Tôi sẽ không bao giờ lập gia đình,” và thay vì vậy bạn buông trôi mình trong công tác xã hội, hay có lẽ cha mẹ bạn đã thúc giục bạn đi theo con đường đó, hay bạn có một lý tưởng. Nếu nó là một phương tiện của tẩu thoát, hay nếu bạn chỉ theo đuổi một lý tưởng được thiết lập bởi xã hội, bởi một người lãnh đạo, hay một giáo sĩ, hay bởi chính bạn, vậy thì bất kỳ công tác xã hội nào bạn làm sẽ chỉ tạo ra đau khổ thêm nữa. Nhưng nếu bạn có tình yêu trong quả tim bạn, nếu bạn đang tìm kiếm sự thật và vì vậy là một con người tôn giáo thực sự, nếu bạn không còn tham vọng, không còn theo đuổi thành công, và đạo đức của bạn không hướng đến mục đích được kính trọng – vậy thì chính cuộc sống của bạn sẽ giúp đỡ tạo ra một thay đổi tổng thể của xã hội.

Tôi nghĩ hiểu rõ điều này quan trọng lắm. Khi chúng ta còn trẻ tuổi, như hầu hết các bạn, chúng ta muốn làm một cái gì đó, và công tác xã hội là công việc dễ dàng nhất, những quyển sách đã viết về nó, những tờ báo đã tuyên truyền cho nó, có những trường học đào tạo những người làm công tác xã hội, và vân vân. Nhưng bạn thấy không, nếu không có tự hiểu biết, nếu không hiểu rõ chính bạn và những liên hệ của bạn, bất kỳ công tác xã hội nào bạn làm sẽ đều vô ích cả.

Chính là một người hạnh phúc, chứ không phải người lý tưởng hay người trốn chạy đau khổ, mới làm cách mạng; và người hạnh phúc không là người có nhiều tài sản. Người hạnh phúc là người tôn giáo thực sự và chính đang sống của anh ấy là công việc xã hội. Nhưng nếu bạn chỉ trở thành một trong vô số những người làm công tác xã hội, tâm hồn bạn sẽ trống rỗng. Bạn có lẽ cho hết tiền bạc của bạn, hay thuyết phục những người khác đóng góp của cải của họ, và bạn có lẽ mang lại những cải cách tuyệt vời; nhưng chừng nào tâm hồn của bạn còn trống rỗng và cái trí của bạn còn nhét đầy những lý thuyết, cuộc sống của bạn sẽ bị đờ đẫn, buồn thảm, không có hân hoan. Vì vậy, trước hết phải hiểu rõ về chính mình, và từ hiểu rõ về chính mình đó sẽ có hành động thuộc loại đúng đắn.

Người hỏi: Tại sao người ta lại nhẫn tâm như thế?

Krishnamurti: Điều đó khá đơn giản, phải vậy không? Khi giáo dục giới hạn chính nó trong việc truyền đạt hiểu biết và chuẩn bị cho em học sinh một việc làm, khi nó chỉ trình bày những lý tưởng và dạy cho em chỉ biết quan tâm đến những thành công riêng của em, hiển nhiên con người trở nên nhẫn tâm. Bạn thấy không, hầu hết chúng ta không có tình yêu trong tâm hồn mình. Chúng ta không bao giờ nhìn ngắm những vì sao hay thích thú trong tiếng rì rào của những dòng nước; chúng ta không bao giờ quan sát ánh trăng đang nhảy múa trên dòng suối đang chảy hay nhìn ngắm đường bay của một con chim. Chúng ta không có tiếng hát trong tâm hồn; chúng ta luôn luôn bị bận rộn; cái trí của chúng ta đầy những kế hoạch và những lý tưởng cứu vớt nhân loại; chúng ta phát nguyện giữ tình huynh đệ, nhưng chính ánh mắt của chúng ta lại là sự khước từ nó. Đó là lý do tại sao rất quan trọng cần có một loại giáo dục đúng đắn trong khi chúng ta còn trẻ, để cho cái trí và tâm hồn chúng ta được khoáng đạt, nhạy cảm, nhiệt tình. Nhưng nhiệt tình đó, năng lượng đó, hiểu rõ bùng nổ đó bị hủy diệt khi chúng ta sợ hãi; và hầu hết chúng ta đều sợ hãi. Chúng ta sợ hãi cha mẹ, giáo viên, giáo sĩ, chính quyền, ông chủ; chúng ta sợ hãi chính chúng ta. Vì vậy cuộc sống trở thành một sự việc của sợ hãi, của tăm tối, và đó là lý do tại sao con người lại nhẫn tâm.

Người hỏi: Liệu người ta có thể kềm hãm không làm bất kỳ điều gì mình thích và tìm ra con đường dẫn đến tự do hay không?

Krishnamurti: Bạn biết không, một trong những điều khó khăn nhất là tìm ra những gì chúng ta muốn làm, không chỉ trong khi chúng ta còn niên thiếu, nhưng suốt cuộc đời. Và nếu bạn không tìm ra cho chính mình cái gì bạn thực sự muốn làm bằng toàn thân tâm, bạn sẽ chấm hết khi bạn làm một việc gì đó mà chẳng có hứng thú, và rồi thì cuộc sống của bạn sẽ đau khổ; và vì đau khổ, bạn sẽ tìm kiếm sự khuây khoả trong những rạp chiếu phim, nhậu nhẹt, đọc vô số những quyển sách, hoạt động trong loại xã hội nào đó và mọi chuyện như thế.

Vì vậy, liệu người giáo dục có thể giúp bạn tìm ra điều gì bạn muốn làm suốt cuộc đời, mà không liên quan gì đến công việc cha mẹ và xã hội có lẽ muốn bạn làm hay không? Đó là câu hỏi thực sự, phải vậy không? Bởi vì, nếu ngay khi bạn tìm ra cái gì bạn thích làm bằng toàn thân tâm, vậy thì bạn là một người tự do; vậy thì bạn có khả năng, tự tin, sáng tạo. Nhưng nếu, không biết cái gì bạn thực sự muốn làm, bạn có trở thành một luật sư, một nhà chính trị, thành người này hoặc người kia, bạn vẫn không có hạnh phúc, bởi vì chính nghề nghiệp đó sẽ trở thành phương tiện hủy hoại bạn và những người khác nữa.

Bạn phải tìm ra cho chính mình bạn yêu thích cái gì. Đừng suy nghĩ dựa vào sự chọn lựa của một trung tâm hướng nghiệp cho phù hợp xã hội, bởi vì trong cách đó bạn không bao giờ khám phá ra cái gì bạn yêu thích làm. Khi bạn yêu thích làm một cái gì đó, không có vấn đề chọn lựa. Khi bạn yêu thích, và hãy để tình yêu làm cái gì nó muốn, có hành động đúng đắn, bởi vì tình yêu không bao giờ tìm kiếm thành công, không bao giờ trói buộc trong sự bắt chước; nhưng nếu bạn dành cuộc sống của bạn cho một cái gì đó mà bạn không ưa thích, bạn sẽ không bao giờ được tự do.

Nhưng chỉ làm bất kỳ cái gì bạn yêu thích không là đang làm cái gì bạn yêu thích. Muốn tìm ra cái gì bạn thật sự yêu thích làm đòi hỏi nhiều thâm sâu, thấu triệt. Đừng bắt đầu bằng cách suy nghĩ lệ thuộc vào sự kiếm sống; nhưng nếu bạn khám phá ra cái gì bạn yêu thích làm, vậy thì bạn sẽ có một phương tiện để sinh sống.

Người hỏi: Liệu đúng rằng chỉ có những người thuần khiết mới có thể thực sự không còn sợ hãi phải không?

Krishnamurti: Đừng có những lý tưởng về thuần khiết, trong trắng, tình huynh đệ, không bạo lực và mọi chuyện như thế, bởi vì chúng chẳng có ý nghĩa gì cả. Đừng cố gắng can đảm, bởi vì đó chỉ là một phản ứng của sợ hãi. Muốn không sợ hãi đòi hỏi sự thấu triệt mãnh liệt, một hiểu rõ toàn qui trình của sợ hãi và nguyên nhân của nó.

Bạn thấy không, có sợ hãi chừng nào bạn còn muốn được an toàn – an toàn trong hôn nhân, an toàn trong việc làm, trong địa vị, trong trách nhiệm, an toàn trong những ý tưởng, trong niềm tin, an toàn trong liên hệ với thế giới và trong liên hệ với Chúa. Khoảnh khắc cái trí tìm kiếm an toàn hay thỏa mãn trong bất kỳ hình thức nào, ở bất kỳ mức độ nào, chắc chắn là có sợ hãi; và điều gì quan trọng là ý thức được qui trình này đồng thời hiểu rõ nó. Nó không phải vấn đề của điều gì là thuần khiết. Cái trí tỉnh táo, cảnh giác, mà là được tự do khỏi sợ hãi, là một cái trí hồn nhiên; và chỉ cái trí hồn nhiên mới có thể hiểu rõ sự thật, chân lý hay Chúa.

Bất hạnh thay, trong quốc gia này cũng như những nơi khác, những lý tưởng đã đảm trách sự quan trọng lạ lùng, lý tưởng là cái gì nên là: tôi phải không bạo lực, tôi nên tốt lành, và vân vân. Lý tưởng, cái gì nên là, luôn luôn ở đâu đó xa thật xa, và vì vậy nó không bao giờ là. Những lý tưởng là điều nguyền rủa bởi vì chúng ngăn cản bạn suy nghĩ trực tiếp, đơn giản và đúng thực khi bạn đối diện với những sự kiện. Lý tưởng, cái gì nên là, là một tẩu thoát khỏi cái gì là. Cái gì là là sự kiện mà bạn sợ hãi – sợ hãi những gì cha mẹ bạn sẽ nói, những gì người ta sẽ suy nghĩ, sợ hãi xã hội, sợ hãi bệnh tật, chết; và nếu bạn đối diện với cái gì là, nhìn nó, tìm hiểu nó ngay cả khi nó mang lại đau khổ, và hiểu rõ nó, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng cái trí của bạn đã trở nên đơn giản lạ thường, rõ ràng; và trong chính rõ ràng này có kết thúc sợ hãi. Rủi thay chúng ta được giáo dục trong tất cả những vô lý thuộc triết lý của những lý tưởng, mà hiển nhiên là một trì hoãn; chúng không có chút giá trị nào cả.

Bạn có lý tưởng của không-bạo lực, ví dụ như thế; nhưng bạn có không-bạo lực hay không? Vì vậy tại sao không đối diện với bạo lực của bạn, tại sao không nhìn vào cái gì bạn là? Nếu bạn quan sát tham lam riêng của bạn, tham vọng của bạn, những vui thú và những giải trí của bạn, và bắt đầu hiểu rõ tất cả những việc đó, bạn sẽ phát giác rằng thời gian như một phương tiện của tiến bộ, như một phương tiện của thành tựu lý tưởng liền kết thúc. Bạn thấy không, cái trí sáng chế ra thời gian để thành tựu trong đó, và vì vậy nó không bao giờ yên lặng, không bao giờ chịu đứng yên. Một cái trí yên lặng là hồn nhiên, trong sáng, mặc dù nó có lẽ đã có hàng ngàn năm trải nghiệm, và đó là lý do tại sao nó có thể giải quyết những khó khăn của tồn tại riêng của người ta trong liên hệ.
Người hỏi: Con người là nạn nhân của những ham muốn riêng của anh ấy, mà tạo ra nhiều vấn đề. Làm thế nào anh ấy có thể tìm ra một trạng thái không còn ham muốn?

Krishnamurti: Ao ước tạo ra một trạng thái không ham muốn chỉ là trò ma mãnh của cái trí. Vì hiểu rằng ham muốn tạo ra đau khổ và muốn tẩu thoát khỏi nó, cái trí chiếu ra lý tưởng không ham muốn và sau đó hỏi, “Làm thế nào tôi đạt được lý tưởng đó?” Và sau đó điều gì xảy ra? Với mục đích không ham muốn bạn đè nén ham muốn của bạn, phải vậy không? Bạn khoá chặt ham muốn của bạn, bạn cố gắng giết chết nó đi, và rồi bạn nghĩ rằng bạn đã đạt được một trạng thái không còn ham muốn – mà tất cả là giả dối.

Ham muốn là gì? Nó là năng lượng, phải không? Vào khoảnh khắc bạn khóa chặt năng lượng của bạn, bạn đã làm cho mình trở thành đờ đẫn, không còn sinh khí. Đó là những gì đã xảy ra ở Ấn độ. Tất cả những người tạm gọi là tu hành đã khóa chặt ham muốn của họ; chẳng có mấy người có suy nghĩ và được tự do. Vì vậy, điều quan trọng không là khóa chặt ham muốn, nhưng hiểu rõ năng lượng và sử dụng năng lượng trong phương hướng đúng đắn.

Bạn thấy không, khi còn trẻ bạn có dư thừa năng lượng – năng lượng thúc đẩy bạn muốn vượt qua những quả đồi, với đến các vì sao. Rồi thì, xã hội bước chân vào và bảo bạn nhốt năng lượng đó trong những bức tường của nhà tù mà nó gọi là kính trọng.

Qua giáo dục, qua mọi hình thức của luật lệ và kiểm soát, năng lượng đó bị nghiền nát dần dần. Nhưng bạn cần năng lượng nhiều hơn, không phải ít hơn, bởi vì nếu không có năng lượng vô biên bạn sẽ không bao giờ tìm ra sự thật là gì. Vì vậy vấn đề không phải làm thế nào chặn lại năng lượng, nhưng làm thế nào duy trì và gia tăng nó, làm thế nào cho nó độc lập và tiếp tục – nhưng không phải bởi sự điều khiển của bất kỳ niềm tin hay xã hội nào – để cho nó trở thành chuyển động hướng về sự thật, về Chúa. Sau đó năng lượng có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Như một viên đá quăng vào hồ nước phẳng lặng tạo ra một vòng tròn lan rộng vô tận, vì vậy hành động của năng lượng trong phương hướng của cái gì là sự thật tạo ra những con sóng của một văn hóa mới mẻ. Sau đó, năng lượng không còn bị giới hạn, không thể đo lường được, và năng lượng đó là Chúa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 5533)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 6514)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 6077)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 10435)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 5049)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3956)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 7080)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 7868)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 13919)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]