Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phỉ báng bậc thánh

10/05/201208:51(Xem: 5000)
Phỉ báng bậc thánh
PHỈ BÁNG BẬC THÁNH
Toàn Không

1)- TỲ KHEO CÙ BA LY:

Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấy có Tỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa:

- Thưa Thế Tôn, hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tạo các ác hạnh, làm các việc ác.

Đức Phật nghe rồi bảo Tỳ Kheo Cù Ba Ly:

- Chớ nói thế, Thầy hãy phát tâm vui vẻ đối với Như Lai, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên làm việc thuần thiện, không có điều ác.

Tỳ Kheo Cù Ba Ly nói lần thứ hai cũng như thế và đức Phật cũng trả lời như thế, lần thứ ba Tỳ Kheo Cù Ba Ly bạch Phật:

- Như Lai nói thật, không có hư dối, nhưng Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên việc làm rất ác, không có gốc lành.

Đức Phật bảo:

- Thầy là người ngu si, chẳng tin lời Như Lai mới nói Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên việc làm rất ác, không có gốc lành; nay Thầy tạo ác khẩu này, không lâu sẽ chịu quả báo.

Lúc ấy, Tỳ Kheo Cù Ba Ly cúi đầu lễ Phật rồi lui đi; không bao lâu sau thân mọc mụn nhọt, trước nhỏ như hạt cải, sau lớn dần bằng hạt đậu, hột ngô, rồi to dần bằng đầu ngón tay ngón chân cái, tới bằng quả đào, bằng nắm tay. Máu mủ chảy ra, đau đớn khổ sở rên rỉ “nóng quá, nóng quá!” kêu than đau đớn cho tới khi chết!

Đêm ấy có 2 vị Trời đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật, rồi vị thứ nhất thưa:

- Cù Ba Ly đã chết rồi.

Vị thứ hai nói:

- Cù Ba ly chết rồi vào địa ngục.

Tôn Giả Mục Kiền Liên nghe sự việc như thế và nghe Cù Ba Ly qua đời chưa được bao lâu, liền đến chỗ đức Phật, cúi lạy rồi bạch:

- Thưa Thế Tôn, Cù Ba Ly chết rồi sinh về đâu?

Đức Phật nói:

- Người đó sinh trong địa ngục Hoa Sen (có cách ghi địa ngục Bát Đàm Ma).

Tôn Giả thưa:

- Nay con muốn đến đó giáo hóa Cù Ba Ly.

Đức Phật bảo:

- Thầy chẳng cần đến đó.

Tôn Giả Mục Kiền Liên lại thưa:

- Con muốn đến đó giáo hóa Thầy ấy.

Đức Phật im lặng không đáp; Tôn Giả Mục Kiền Liên tại chỗ ngồi liền biến mất, từ vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ liền đến đại địa ngục Hoa Sen. Ngay lúc ấy, Tôn Giả trông thấy có tội nhân đang bị lửa đốt, lại có trăm con trâu đang cày trên lưỡi; Tôn giả hỏi Quỷ tốt, thì được biết đó chính là Cù Ba Ly.

Tôn Giả Mục Kiền Liên ngồi kiết già trong hư không, búng ngón tay làm cho lửa tắt trâu ngừng và Cù Ba Ly tỉnh lại. Tôn Giả nói:

- Hãy nhìn đây, Cù Ba Ly.

Cu Ba Ly ngước lên hỏi:

- Ông là ai?

Tôn Giả đáp:

- Cù Ba Ly, ta là đệ tử Phật Thích Ca, tên Mục Kiền Liên.

Lúc ấy Cù Ba Ly trông thấy Tôn Giả Mục Kiền Liên, liền thốt lên lời ác:

- Nay tôi đang bị khổ này vẫn không thoát khỏi thấy ông sao?

Cù Ba Ly vừa nói xong, lửa lại bùng lên đốt, có nghìn con trâu cày trên lưỡi; Tôn Giả thấy thế tăng thêm buồn rầu, sinh lòng hối hận, liền biến mất khỏi địa ngục ấy trở về chỗ đức Phật cúi lạy xong đem nhân duyên ấy thưa lại, Ngài bảo:

- Trước Ta đã nói: “Chẳng cần đến gặp kẻ ấy”.

Rồi đức Phật nói kệ:

Người sinh ở thế gian,
Búa rìu từ trong miệng,
Trở lại chém thân mình,
Do những lời nói ác.
Đáng chê đổi thành khen,
Đáng khen thì lại chê,
Tội ấy sinh bởi miệng,
Chết rơi vào địa ngục.

Đức Phật bảo tứ chúng:

- Hãy học ba pháp để thành tựu hạnh của mình. Đó là: Thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành; các Ông hãy học điều này.

LỜI BÀN:

Bài kinh ngắn trên đây nói về câu chuyện Tỳ Kheo Cù Ba Ly nói xấu hai Tôn Giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, đức Phật bảo không phải như vậy, nhưng Cù Ba Ly nhắc đi nhắc lại ba lần như thế. Cuối cùng, đức Phật bảo Tỳ Kheo Cù Ba Ly là ngu si không tin lời Phật, đã nhất quyết nói hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền liên làm việc làm rất ác, không có gốc lành. Rồi đức Phật thọ ký: “Nay Thầy tạo ác khẩu, không bao lâu nữa sẽ chịu quả báo”.

Ngay khi đức Phật nói xong, nếu Tỳ Kheo Cù Ba Ly hiểu lời Ngài nói mà xin sám hối thì chắc chắn đức Phật sẽ tha tội cho, nhưng vì u mê nên đã làm thinh, chỉ lễ lạy rồi lui đi.

Một điểm cần để ý là Tỳ Kheo Cù Ba Ly đã không nói rõ hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã làm việc gì ác, mà chỉ nói: “việc làm rất ác, không có gốc lành”, nghĩa là Tỳ Kheo Cù Ba Ly đã không nêu lên việc làm ác một cách cụ thể.

Sự việc là do Cù Ba Ly thuộc nhóm Đề Bà Đạt Đa chia rẽ Tăng đoàn, mưu hại Phật, cấu kết nhau tham lợi dưỡng của Vua A Xà Thế, bị Tôn giả Xá Lợi Phất một lần đến cảnh cáo, và một lần khác cùng Tôn giả Mục Kiền Liên đến chỗ Đề Bà Đạt Đa mang một số Tỳ Kheo của phe Đề Bà Đạt Đa bay lên không đi mất.

Thiết nghĩ, Tỳ Kheo Cù Ba Ly là người có tâm thù hằn vì không hiểu, cố chấp quan điểm của mình, nên dù có bị bệnh khổ sở đến chết cũng không làm cho tỉnh ngộ được sự lỗi lầm; giả thử khi đang bị bệnh ung nhọt ngặt nghèo mà Tỳ Kheo Cù Ba Ly tỉnh mê đến xin đức Phật cho sám hối tội lỗi, thì vẫn còn cứu vãn được vậy.

2) – SA DI QUÂN ĐỀ:

Bấy giờ, tại nước Ba La Nại có một Thừa Tướng rất gàu có, nhưng tới 80 tuổi mới sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Quân Đề, cha mẹ rất yêu thương chăm sóc đầy đủ. Đến năm Quân Đề được 10 tuổi, cha mẹ tìm đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại núi Kỳ Xà Quật nước Ma Kiệt, khi gặp Phật, sau khi vái lễ xong, người cha nói:

- Xin Thế Tôn cho Quân Đề được theo Ngài tu hành, vì tới già con mới sinh được một đứa con trai, kính mong Ngài nhận cho Quân Đề được nhập đạo.

Đức Phật nói:

- Hay thay, hay thay Sa Di!

Đức Phật vừa nói xong, tự nhiên tóc Quân Đề rụng hết, đức Phật bảo Tôn giả A Nan thị giả của Ngài đưa áo Cà Sa cho, Quân Đề mặc vào tức thì; rồi Ngài nói pháp cho Quân Đề nghe, chỉ bày dạy bảo, Sa Di Quân Đề sinh lòng vui mừng, liền chứng đạo quả, tức thì giải thoát.

Bấy giờ, mọi người đều ngạc nhiên thắc mắc, Tôn giả A Nan Đà liền đứng dậy vái Phật rồi thưa:

- Bạch đức Thế Tôn, Sa Di Quân Đề quá khứ làm công đức gì mà nay vừa được gặp Thế Tôn chẳng được bao lâu đã chứng quả, sao mau chóng quá vậy?

Đức Phật bảo:

- Sa Di Quân Đề không phải hôm nay mới tu hành mà được như vậy đâu, kết quả của ngày hôm nay là do đời quá khứ đã từng cúng dường cha mẹ và chúng Tăng, và đã từng tu các công đức từ lâu đời rồi.

Rồi đức Phật nói tiếp: Về đời quá khứ xa xưa, sau khi đức Phật Tỳ Bà Thi (Cách nay 91 kiếp = khoảng 6.5 tỷ năm) diệt độ, trong thời chính pháp, có một Tỳ Kheo trẻ, thông suốt ba Tạng Kinh điển A Tỳ Đàm, Tỳ Ni, Tu Đà La. Tỳ Kheo này có diện mạo đẹp đẽ, tiếng nói trong trẻo, thông minh, tài giỏi nên từ Vua Quan đến nhân dân ai cũng biết và ca ngợi.

Lúc ấy, có một Tỳ Kheo già thân hình mặt mũi xấu xí, lại có giọng nói không được tốt, nhưng thường hay tụng Kinh; một hôm, vị Sư Tam Tạng trẻ ấy, ngẫu nhiên nghe thấy vị Sư già tụng Kinh không êm suôi tai, liền sinh tâm hủy báng nói rằng:

“- Tiếng tụng Kinh như thế, chẳng khác nào tiếng chó sủa.”

Vị Sư già nghe vậy nói:

“- Sao Thầy lại hủy báng ta như vậy, Thầy có biết ta chăng?”

Vị Sư trẻ nói:

“- Tôi biết Ông chứ, Ông là Tỳ Kheo già Ma Ha La trong thời chính pháp của Phật Tỳ Bà Thi, sao tôi lại không biết?”

Tỳ Kheo Ma Ha La nói:

“- Ta nay chỗ làm đã xong, phạm hạnh (khuôn phép) đã lập, không còn sinh tử đời sau nữa.”

Vị Sư trẻ nghe nói rồi sinh lòng sợ hãi; vị Sư già liền đưa cánh tay phải ra phóng hào quang sáng rực khắp cả. Vị Sư trẻ tức thì đảnh lễ cầu xin sám hối rằng:

“- Tôi là người ngu si không biết phân biệt Hiền Thánh, xin cho đời sau được gặp Thánh Sư, sạch hết phiền não cũng như Ngài.”

Tỳ Kheo trẻ Tam Tạng ấy vì một lời nói ác hủy báng Thánh nhân, mà sau làm thân Chó 500 kiếp; khi ấy, mọi người trong đại chúng nghe đức Phật nói thế, đều kinh hoàng, không ngờ lời nói ác mà độc hại đến thế; bấy giờ, ai nấy đều tự nghĩ tự nguyện không bao giờ dám dùng lời độc ác hủy báng Thánh Hiền, Thiện nhân.

Đức Phật nói tiếp:

- Cách đây mười năm, tại khoảng giữa hai nước Ma Kiệt và Xá Vệ, có đoàn thương buôn đi ngang qua, người chủ thương buôn có mang theo một con chó. Vào lúc chập tối hôm ấy, người bạn của chủ buôn có nấu thịt để làm thức ăn cho ngày hôm sau, tới đêm, con chó ăn vụng và làm đánh đổ hết. Sáng hôm sau họ định lấy thức ăn ấy ra ăn thì biết con chó đã ăn hết và làm đổ tứ tung cả! Đang gặp lúc đói khát, nên họ sinh ra tức giận, liền cầm dao chặt đứt bốn chân chó, rồi quẳng xuống hố và bỏ đi, con chó ở dưới hố đau đớn quằn quại rên rỉ rất là thảm thiết.

Lúc ấy, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất trong đêm dùng Thiên nhãn thấy việc như thế ấy; hôm sau, khi khất thực xong, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất liền đến chỗ con chó, đem thức ăn cho nó ăn, rồi nói pháp dạy bảo. Sau khi chết, chó ấy được thoát kiếp Chó trong 500 kiếp, làm kiếp Người; con chó ấy, nay là Sa Di Quân Đề này.

Do lời hủy báng Thánh Hiền phải đọa lạc vào đường ác, nhưng vì ăn năn sám hối và phát nguyện nên được gặp Thánh thiện nhân là Tỳ kheo Xá Lợi Phất, thoát kiếp Chó làm Người, được gặp Ta và giải thoát mau chóng như thế.

LỜI BÀN:

Đọc xong Kinh nói về Sa Di Quân Đề, chúng ta thấy có một điểm cần nêu ra, đó là khi người cha của Quân Đề đến xin đức Phật chấp nhận cho Quân đề được theo Phật học đạo, liền được Ngài hoan hỷ chấp thuận ngay, và đức Phật nói: “Hay thay, hay thay Sa Di”. Liền lúc đó tóc của Quân Đề rụng hết, đây là một việc lạ, khó tin, vì trái với khoa học; còn nếu chúng ta tin được thì khoa học không thể giải thích nổi. Cũng có rất nhiều điều khoa học không thể giải thích được như Tam Minh, Ngũ Nhãn, Lục Thông của chư vị đắc đạo, làm sao khoa học chứng minh?

Xuyên qua hai bài Kinh trên, chúng ta thấy sự hủy báng bậc Thánh Hiền quả là cần phải để ý đề phòng cẩn thận, vì lời nói ác mà phải chịu tội vô cùng nặng nề như thế; bởi vậy, chúng ta không nên coi nhẹ lời nói, mà phải hết sức thận trọng trong việc nói năng sao cho phải đạo.

Toàn Không


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4629)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5658)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5314)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9307)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4461)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3470)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6304)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6852)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10610)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567