Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tịnh Độ vấn đáp

06/04/201214:27(Xem: 7044)
Tịnh Độ vấn đáp

TỊNH ĐỘ VẤN ĐÁP

Tỳ kheo Thích Giác Nhàn sưu tập

LỜI GIỚI THIỆU

Một học sinh khi còn ở cấp trung học cần phải học tổng hợp các môn, nhưng khi lên Đại học thì phải học chuyên môn, do đó cần phải chọn cho mình một ngành nghề phù hợp sở thích của mình. Có như vậy việc học mới tiến bộ và kết quả đạt được sẽ tốt đẹp hơn. Một người tu Phật, lúc đầu cần phải chọn cho mình một pháp môn thích hợp để tu tập. Con đường đến quả vị Phật có nhiều lối, tùy theo căn cơ của mỗi người mà chọn lựa con đường nào thích hợp nhất để đi. Như lời người xưa đã nói “thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp là pháp diệu”

Nhằm giúp những vị tu theo pháp môn Tịnh độ vững niềm tin và tinh tấn hành trì, thầy Thích Giác Nhàn trong thời gian nhập thất chuyên tu, đã bỏ ra một ít thời giờ sưu tập những lời Vấn đáp của chư Tổ sư tiền bối kết tập thành cuốn sách “Tịnh Độ Vấn Đáp” này. Nội dung cuốn sách rất bổ ích cho những người tu theo pháp môn Tịnh độ tham khảo. Tôi xin tán thán và tùy hỷ việc làm này của Thầy Thích Giác Nhàn và xin giới thiệu đến quý Phật tử gần xa.

Đại Đức Thích Chân Tính.


LỜI TỰA

tinhdovandap-thichgiacnhan-2-contentChư Phật ra đời là vì một đại sự nhân duyên là “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Nghĩa là Ngài muốn chỉ cho tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Nhưng vì vô thỉ do một niệm vô minh bất giác khởi lên che mờ thể tánh thanh tịnh, nên chúng sinh trôi lăn trong ba cõi sáu đường, ra vào nơi sông mê biển nghiệp, mà không tự trở về với nguồn tâm chân như của chính mình. Vì vậy, Đức Phật tùy theo căn cơ sai biệt của mỗi chúng sinh mà Ngài nói ra nhiều pháp môn phương tiện khác nhau. Về sau chư Tổ y cứ trên lời Phật dạy lập ra nhiều tông chỉ như: Thiền tông, Duy thức tông, Mật tông, Luật tông, Tịnh độ tông… Các tông chỉ này đều thiết lập trên nền tảng của giới, định, huệ và cứu cánh cũng gặp nhau tại nơi suối nguồn chân như.

Hơn nữa, chư Tổ dạy: Muốn tiến vào địa hạt của các tông chỉ không phải đi bằng con đường kiến, văn, giác tri, thiết lập trên phạm trù tư duy hữu ngã mà phải bước vào bằng con đường niềm tin đi trên tiến trình tín, tấn, niệm, định và huệ để khai minh tâm địa để thành tựu trí huệ vô ngã. Không những các hành giả đi vào tông chỉ bằng niềm tin, mà các vị A La Hán và các vị Bồ Tát cũng đi qua cửa ngõ của niềm tin. Cũng như muốn bước vào dòng Thánh Tư đà hoàn phải dứt trừ nghi, giới cấm thủ, tà kiến. Và chư vị Bồ tát muốn bước lên ngôi đẳng giác cũng phải đi qua lộ trình Thập tín…

Sở dĩ người con Phật không tin lời Phật dạy là do lòng nghi, chính nghi là một thứ phiền não ngăn cản các hành giả đi vào con đường đạo, vì một đàng nghi, một đàng tin thì thử hỏi làm sao thực hành để thành tựu tâm pháp được. Vì lẽ đó chúng tôi góp nhặt các nghi vấn về Tịnh độ tông để cống hiến cho các vị liên hữu làm tư lương trên bước đường tu niệm. Lẽ dĩ nhiên, những nghi vấn này không thể nào giải quyết hết những mối nghi ngờ của các vị. Tuy nhiên, có cũng là một yếu tố giúp cho hành giả có được niềm tin vững chắc để đi vào tâm pháp Phật.

Muốn chuyển hóa hết các nghi vấn, điều cần yếu là tự mỗi người phải thực nghiệm pháp tu. Duy chỉ có thực hành mới có thể đánh tan các mối nghi. Khi nghi không còn, thì tin hay không tin không đặt thành vấn đề nữa, vi vạn pháp đều là “Như Thị”.

Chúng tôi chỉ làm công việc biên soạn thuật lại những lời vấn đáp của chư Tổ liên tông Tịnh độ. Tuyệt nhiên, chúng tôi không dám xen một ý nghĩ riêng tư vào, vì lời dạy của chư Tổ quá là đầy đủ. Chắc rằng, việc làm của chúng tôi không sao tránh khỏi những lỗi vụng về. Ngưỡng mong các bậc cao minh từ bi chỉ giáo cho.

Phật lịch 2544

DL 1-1-2001

Tỳ kheo Thích Giác Nhàn

Tự LIÊN PHƯƠNG SA môn


ĐỨC PHẬT HUYỀN KÝ:

Thời mạt pháp ức ức người tu hành khó có người được giải thoát.

Chỉ có nương nơi pháp niệm Phật mà được thoát khỏi luân hồi, mau chứng thành Phật quả.

(Kinh Đại Tập)

NGÀI VĂN THÙ SƯ LỢI DẠY:

Nếu thiện nam tín nữ nào nguyện mau thành Phật không gì qua môn tu “Niệm Phật”

Niệm Phật thời có thể mau chứng qua vô thượng Bồ đề.

(Tống Cao Tăng Truyện)

ẤN QUANG ĐẠI SƯ NÓI:

Cửu giới chúng sinh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả.

Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp chúng sinh.

(Ấn Quang Văn Sao)

Đọc sách PDF

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 39246)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6579)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 8302)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 6089)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 14713)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 15347)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 10616)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 7234)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 18106)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
08/04/2013(Xem: 9235)
Mùa hè năm 1996, tôi có dịp sang Canada thuyết giảng và hướng dẫn vài khóa tu học. Một số Phật tử đã thâu băng những buổi giảng và chép ra để làm tài liệu tu tập...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]