Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật và Quỷ Ác

11/07/201219:10(Xem: 4696)
Đức Phật và Quỷ Ác
duc_phat

ĐỨC PHẬT VÀ QUỶ ÁC
Toàn Không

Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ nước Bạt Kỳ có Quỷ tên Tỳ Sa rất hung dữ, giết người vô số, có ngày giết một người, hai người, ba người, bốn người, mười người, hai mươi người, ba mươi người, v.v...

Nhân dân Bạt Kỳ tụ tập lại mà than rằng: “Chúng ta nên bỏ nước này mà đi nơi khác, chẳng nên ở đây”. Quỷ Tỳ Sa biết tâm niệm của nhân dân, liền bảo rằng: “Các Ngươi chớ lìa xứ này đến xứ khác, vì sao? Vì chẳng chạy thoát tay ta, đi đâu ta cũng có thể tới được. Tốt hơn hết, các Ngươi mỗi ngày đem dâng ta một người, ta sẽ không khuấy phá sát hại nhiều nữa”; từ đó nhân dân mỗi ngày đem một người nạp cho ác Quỷ. Ác Quỷ ăn người ấy xong đem xương ném xuống khe núi đầy cả suối.

Một hôm, có Trưởng giả Thiện Giác tại nước Bạt Kỳ, giàu có, lắm tiền nhiều của, tài sản vô số kể, lừa ngựa, lạc đà đếm không xuể, vàng bạc trân bảo đếm cũng không hết. Trưởng giả có một đứa con duy nhất tên Na Ưu La, ông rất thương yêu quý mến đứa con không rời mắt. Lúc ấy đến lượt con ông dâng cho Quỷ, không sao tránh được. Ông và vợ tắm rửa cho đứa nhỏ Na Ưu La sạch sẽ, mặc quần áo đẹp đẽ, rồi đưa con đến bãi Tha ma gần chỗ Quỷ ở. Đến rồi, họ khóc lóc kể lể, cùng nói rằng:

“Chư Thần, Địa Thần chứng minh cho chúng tôi chỉ có một đứa con, mong Chư Thần hãy giữ cho đứa bé này khỏi bị tai ách. Đế Thiên Đế Thích, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên Thần hộ thế, chúng con xin quy mệnh, mong quý Ngài cứu mạng đứa nhỏ này. Đại Phạm Thiên Vương, chúng con quy mệnh, mong Ngài cứu mạng đứa bé này thoát nguy ách.

Chúng con xin quy mệnh các đệ tử A La Hán của Như lai, khiến cho thoát khỏi nạn này. Chúng con cũng quy y Bích Chi Phật, khiến qua khổ nạn này.

Chúng con xin quy y đấng Như Lai là bậc hàng phục người không chịu hàng phục, độ người chưa được độ, giải thoát người chưa giải thoát. Ngài làm con mắt cho người mù, làm đại y vương cho người bệnh, Ngài là bậc tối tôn tối thượng trong Trời Người Thiên Ma, Thần Quỷ, không ai vượt hơn Ngài. Vậy, chúng con xin Ngài chứng xét soi thấu lòng thành và thương xót cứu đứa bé này khỏi tai ách nghiệt ngã.

Khóc nói một hồi lâu như thế, rồi cha mẹ Na Ưu La gạt nước mắt từ biệt, bỏ đứa con lại đó mà đi về; Đức Phật dùng Thiên nhãn Thiên nhĩ thấy hết nghe thấu suốt mọi việc, biết ác Quỷ ở đâu. Ngài liền dùng Thần Túc đến ngay chỗ ác Quỷ ở trong núi phía Bắc núi Tuyết sơn (Hy Mã Lạp Sơn), vào ngay chỗ cửa hang của Quỷ ngồi Kết già trong chính thân chính ý.

Bấy giờ đứa bé Na Ưu La đi dần đến chỗ ác Quỷ ở, từ xa trông thấy đức Phật ngồi ở giữa cửa hang hốc hẻo lánh, hào quang rực sáng, trang nghiêm đẹp đẽ uy nghi lộng lẫy. Cậu bé thấy rồi vui mừng và nghĩ: “Đây chắc chẳng phải ác Quỷ, vì ta vừa thấy là lòng cảm thấy yên ổn, có thiện cảm, không hiểu tại sao?, dù có phải là ác Quỷ xin để tùy ý cho ăn”.

Lúc ấy đức Phật bảo: “Na Ưu La, như con nghĩ, Ta là Như Lai Chí Chân Đẳng Chính Giác, đến đây làm cho ác Quỷ phải quy phục để cứu con” Bé Na Ưu La nghe Phật nói, vui mừng hớn hở, liền đến gần chỗ Phật cúi lễ rồi ngồi qua một bên. Đức Phật liền nói cho Na Ưu La nghe luận về bố thí, về giới, về sinh cõi Trời, dục là gây ác, thân thể là không sạch, xuất gia là cần yếu v.v...

Đức Phật thấy tâm ý của bé Na Ưu La đã hoan hỉ với lời dạy, đã thấm nhuần nhu nhuyễn, nên Ngài nói về khổ tập diệt đạo một cách đầy đủ (Khổ: Sinh, già, bệnh, chết đều khổ, Tập: Ái dục là nguyên nhân gây ra khổ, Diệt: Bỏ ái dục sẽ hết khổ, Đạo: Con đường Phật đạo phải theo). Chú bé sạch hết những thói xấu xa ở đời (sạch trần cấu), được lòng tin kiên cố không còn hồ nghi (được pháp nhãn thanh tịnh), thấu hiểu rõ và vâng theo lời Phật dạy.

Khi ấy, Quỷ Tỳ Sa trở về chỗ ở của mình, từ xa ác Quỷ trông thấy đức Phật ngồi ngay ngắn bất động. Thấy rồi, ác Quỷ giận dữ nổi giông gió bão táp, sấm chớp hướng vào chỗ Phật, làm mưa bay như đao kiếm, nhưng chưa tới nơi liền biến thành hoa sen. Lúc ấy Quỷ Tỳ Sa càng thêm tức giận, làm mưa bão đùng đùng, sấm chớp vang rền, sỏi đá bay liệng ào ào tới chỗ Phật, nhưng chưa tới nơi đã rơi xuống đất lại hóa ra thức ăn. Quỷ lại hóa thành voi lớn kêu rống lên xồng xộc chạy tới, đức Phật hóa ra sư tử chúa; Quỷ bèn hóa ra thân sư tử, đức Phật liền hóa ra lửa lớn; Quỷ càng thêm giận dữ hóa làm rồng lớn bảy đầu, Ngài hóa làm chim cánh vàng định ăn thịt rồng.

Đến đây, Quỷ liền nghĩ: “Ta có bao nhiêu thần lực đã hiện ra hết rồi, nhưng Sa Môn này vẫn ngồi yên bất động, nay ta hãy hỏi nghĩa”. Nghĩ rồi Quỷ nói:

- Ta là Tỳ Sa muốn hỏi thâm nghĩa Sa Môn, nếu Ông không đáp được, ta sẽ nắm chân Ông ném xuống biển Nam.

Đức Phật bảo:

- Ác Quỷ nên biết, Ta tự quán sát không có Trời Người, Thiên Ma, Thần Quỷ, Sa Môn, Bà La Môn nào có thể nắm chân Ta ném xuống biển Nam được; nay Ông muốn hỏi nghĩa lý, cứ hỏi đi.

Ác Quỷ liền hỏi:

- Sa Môn, thế nào là hạnh cũ, thế nào là hạnh mới, thế nào là hạnh diệt?

Đức Phật đáp:

- Ác Quỷ nên biết, mắt là hạnh cũ, việc làm ngày xưa duyên với thụ thành hạnh, đây là hạnh cũ; này ác Quỷ, ngày nay thân ba, miệng bốn, ý ba tạo tác, đó là hạnh mới.

Ác Quỷ nên biết: Hạnh cũ diệt hết không khởi nữa, lại chẳng tạo hạnh mới, giữ gìn chẳng sinh, dứt hẳn không sót, đó là hạnh diệt.

Ác Quỷ nói:

- Ta nay đói quá, sao lại đoạt thức ăn của ta, Sa Môn, hãy trả đứa bé lại cho ta.

Đức Phật bảo:

- Khi xưa, lúc Ta chưa thành đạo, còn làm Bồ Tát, có bồ câu bay đến chỗ Ta, Ta còn chẳng tiếc thân mạng cứu bồ câu ấy khỏi nạn, huống ngày nay Ta đã thành Như Lai, lại có thể bỏ đứa bé này cho Ông ăn thịt sao?

Ác Quỷ, dù Ông có dùng hết thần lực, Ta cũng không bao giờ giao đứa bé này cho Ông.

Thế nào ác Quỷ?, dưới thời Phật Ca Diếp, Ông từng làm Sa Môn, tu trì phạm hạnh (khuôn phép), sau lại phạm giới mà sinh làm ác Quỷ này.

Bấy giờ, ác Quỷ nương oai Thần của Phật, nhớ lại các hạnh đã tạo ngày xưa, liền nói:

- Nay con ngu mê, không phân biệt thiện ác mà sanh tâm này đối với Như Lai. Cúi mong đức Như Lai cho con sám hối.

Quỷ Tỳ Sa thưa như thế ba lần. Đức Phật bảo:

- Ta chấp nhận Ông hối lỗi, chớ có phạm nữa.

Lúc ấy, đức Phật thuyết pháp vi diệu cho Quỷ Tỳ Sa nghe khiến được hoan hỉ. Rồi Quỷ Tỳ Sa vào hang lấy mấy nghìn lượng vàng dâng lên đức Phật và nói:

- Nay con đem hang núi này cúng cho Chiêu Đề Tăng, cúi mong Như Lai nhận cho con và mấy ngàn lượng vàng này.

Quỷ Tỳ Sa nói như thế ba lần. Đức Phật bấy giờ chấp thuận nhận hang núi, rồi Ngài nói kệ:

Vườn quả thí thanh lương,

Sửa đường làm cầu đò,

Nếu hay tạo thuyền lớn,

Và các vật dưỡng sanh.

Ngày đêm không lười mỏi,

Được phước không thể lường,

Pháp nghĩa, giới thành tựu,

Chết rồi sinh lên trời.

Bấy giờ Quỷ Tỳ Sa thưa:

- Chẳng rõ Như Lai còn dạy điều gì không?

Đức Phật bảo:

- Nay Ông nên bỏ hình tướng cũ, đắp ba áo làm Sa Môn, vào thành Bạt Kỳ, đi khắp nơi trong thành nói lời này: “Chư Hiền nên biết, Như Lai ra đời, người không chịu hàng phục liền hàng phục, độ người chưa được độ, người chưa giải thoát khiến cho giải thoát, cứu hộ người chưa được cứu. Ngài làm con mắt cho người mù, là bậc tối tôn tối thượng, trong Trời Người, Thiên Ma, Quỷ Thần không ai bằng Ngài; Như lai là bậc đáng kính đáng quý, Ngài làm những điều tốt lành cho chúng sinh. Hôm nay, Ngài đã độ cho đứa bé Na Ưu La và làm ác Quỷ Tỳ Sa phải hàng phục, mọi người nên đến chỗ Như lai đang ngự trên núi nơi Quỷ ở để được nghe lời chỉ bảo lợi ích”.

Quỷ Tỳ Sa nói:

- Con xin vâng lời Như lai.

Rồi Quỷ Tỳ Sa làm Sa Môn, đắp ba áo, nhanh chóng vào thành đi khắp nói lời dạy: “. . . Hôm nay, Như Lai độ đứa bé Na Ưu La, và làm cho ác Quỷ Tỳ Sa phải hàng phục; mọi người nên đến chỗ Như Lai đang ngự trên núi nơi Quỷ ở để được nghe lời chỉ bảo lợi ích”.

Bấy giờ, nhân dân Bạt Kỳ, Trưởng giả Thiện Giác, nghe những lời ấy, họ tụ tập lại vui mừng hớn hở không kìm được; họ liền cùng kéo nhau tới chỗ đức Phật đông như kiến (8 vạn 4 nghìn người).

Đến nơi rồi, vái lễ, có người sờ chân Phật, có người nâng tay Phật. Khi tất cả đã an vị, đức Phật thuyết pháp cho nhân dân Bạt Kỳ nghe vi diệu pháp về luận thí, giới, sinh Thiên, dục là bất tịnh, xấu xa là họa lớn.

Lúc mọi người đã có tâm ý vui thích, Ngài nói về khổ tập diệt đạo, tất cả đều sạch xấu xa ở đời (sạch trần cấu); giống như từ áo trắng dễ nhuộm màu, tin tưởng hoàn toàn không còn điều gì nghi ngờ, không còn sợ hãi (được pháp thanh tịnh); họ đều tự quy y Tam Bảo Phật Pháp Thánh chúng, và thụ trì năm giới.

Trưởng gia Thiện Giác, cha của bé Na Ưu La liền thưa:

- Cúi mong Thế Tôn nhận lời thỉnh cầu đến nhà con ngày mai, con sẽ cúng dàng Như lai.

Đức Phật im lặng nhận lời, Trưởng giả thấy đức Phật đã nhận lời, liền cúi lễ rôi lui về cho sửa soạn thức ăn, mọi người cùng vái lạy ra về trong lòng hân hoan.

Sáng hôm sau, Trưởng giả đích thân đến thỉnh mời Phật, Ngài liền đến nhà Trưởng giả; sau khi an tọa, Trưởng gia đích thân dâng thức ăn uống lên Phật đầy đủ. Sau khi ăn xong, Ngài thuyết pháp cho Trưởng giả và quyến thuộc nghe, xong ông thưa:

- Thưa đức Thế Tôn, nếu bốn chúng (Tăng, Ni, Cư sĩ Nam Nữ) của Ngài cần thức ăn, áo mặc, thuốc men, vật dụng, xin Thế Tôn cho phép họ đến nhà con nhận lấy.

Đức Phật bảo:

- Lành thay, Trưởng giả!, như lời Ông nói.

Nói xong, trong khoảnh khắc, đức Phật biến mất khỏi nước Bạt Kỳ trở về vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, Ngài vào giảng đường bảo mọi người:

- Nếu bốn bộ chúng cần thức ăn, áo mặc, thuốc men, vật dụng, hãy đến nhà Trưởng giả Thiện Giác tại nước Bạt Kỳ nhận, tại sao? Vì Trưởng giả là Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), cha của bé Na Ưu La, không tiếc của bậc nhất, sẵn sàng cúng dường bốn chúng.

LỜI BÀN:

Thời nay nghe nói việc Quỷ ăn thịt người thì khó tin, vì không hề thấy xảy ra, thật là không tin nổi; có lẽ mỗi thời mỗi khác chăng? Như thời chiến tranh, không nghe nói ai bị ma nhập, tới thời nay, thời bình ở Việt Nam, chuyện ma nhập có xảy ra, có người nhìn thấy người cõi Âm, nói chuyện với người đã chết, từng đã xảy ra trong ít lâu nay ở Việt Nam. Các tin tức này, chúng ta thường thấy trên báo chí, trên mạng đều có nói đến, thiết nghĩ các việc khó tin vẫn có xảy ra vậy.

Chuyện ác Quỷ trên đây liên quan đến đức Phật, các Thánh đệ tử của Ngài kết tập ra trong Kinh điển, không thể hư dối được, chúng ta phải tin là sự việc có xảy ra.

Khi ác Quỷ dùng thần lực không làm gì được Phật, bèn quay qua hỏi nghĩa lý: “Thế nào là hạnh cũ, thế nào là hạnh mới, thế nào là hạnh diệt?”. Phật trả lời: “Mắt là hạnh cũ, việc làm ngày xưa duyên với thụ thành hạnh cũ, tai mũi lưỡi thân ý lúc trước tạo, duyên với thọ thành hạnh cũ”.

Điểm này, chúng ta thấy hạnh cũ ví như mắt thấy cái bánh, mũi ngửi mùi thơm, tai nghe nói ngon, ăn vào thấy ngọt, nên có cảm giác ngon, yêu thích. Đầy đủ 6 căn, 6 trần, 6 thức cùng làm việc. Cái việc ăn này xảy ra trước đây hay từ lâu rối gọi là “hạnh cũ”. Nếu xảy ra hôm nay, bây giờ, đó là “hạnh mới”, nếu kiêng cữ từ nay trở đi không ăn bánh ngọt nữa, tức là “hạnh diệt”

Ngày nay “thân ba, miệng bốn, ý ba tạo tác, đó là hạnh mới” là sao?

Thân ba là sát sanh, trộm cắp, tà dâm

Miệng bốn là nói dối, nói hai chiều, nói thêm bớt, nói ác.

Ý ba là tham lam, sân giận, si mê tà kiến.

Đến khi Quỷ Tỳ Sa đã quy Phật rồi nói rằng: “Con nay đem hang núi này cúng cho Chiêu Đề Tăng v.v...”, chiêu Đề Tăng là gì?

Chiêu là nhận tội, buộc lại, tới với mình, tự gây ra cho mình, bày tỏ, Đề là nắm lấy, dẫn đến, kêu van, Tăng là Thầy tu; Chiêu Đề Tăng là tự bày tội lỗi với bậc chân tu giác ngộ.

Chúng ta thấy Kinh này không đề cập đến việc Phật giao đứa bé vào lúc nào, theo thiển ý thì sau khi Quỷ Tỳ Sa quy Phật rồi và nhận nhiệm vụ xuống núi vào nhân dân nói những lời Phật bảo, Ngài đã cho em bé ra về; còn đức Phật ở lại chỗ của Quỷ trong núi, và nhân dân nghe những lời ấy bèn cùng nhau kéo đến chỗ núi ấy.

Bài Kinh này cho chúng ta thấy: đức Phật đã biến Quỷ dữ thành lương thiện, và Quỷ đã học được một bài học về mười điều lành (thập thiện) do Phật dạy; từ đấy không còn là Quỷ dữ nữa, mà phải nói là Quỷ hiền; trên đời này có lẽ chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể biến Quỷ ác thành Quỷ Thiện mà thôi.

Đọc bài Kinh trên, chúng ta rút ra được bài học cần ghi nhớ: đó là người tu phạm giới sẽ bị đọa; bởi vậy những vị tu hành phải để ý nhớ giữ gìn giới hạnh để khỏi đọa vậy.

Toàn Không
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4600)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5626)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5291)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9270)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4448)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3459)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6236)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6830)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10488)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567