Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Vật Cúng Tế

21/06/201202:36(Xem: 5504)
Lễ Vật Cúng Tế
tvqdchante (23)
LỄ VẬT CÚNG TẾ
Toàn Không

Bấy giờ, tại thành Xá-Vệ, có Bà-la-môn Trường-Thân tổ chức đại hội cúng tế rất lớn, các lễ vật gồm bảy trăm con vật và các thức ăn thức uống cũng được chuẩn bị một cách đầy đủ. Thành phần tham dự gồm có dân chúng trong vùng, các viên chức sắc trong cả nước Xá-Vệ đến, đặc biệt hơn nữa là nhiều người từ các nước khác cũng sẽ đến dự kỳ đại hội cúng tế lớn lao này.

Bà-la-môn Trường-Thân nghe nói: “Có Sa-môn họ Cù-Đàm, là dòng dõi quí tộc, con Vua Tịnh-Phạn, bỏ địa vị quyền uy, xa lìa gia đình giàu sang phú quí, để đi học đạo và đã đắc bậc Chánh-Đẳng Chánh-Giác”.

Ông cũng nghe nói: “Sa-môn Cù-Đàm đang du hành trong nhân gian, vừa mới đến nước Xá-Vệ, hiện đang cư ngụ tại tịnh-xá Cấp-Cô-Độc, thuộc rừng Kỳ-Đà”.

Bà-la-môn Trường-Thân liền nghĩ: “Nay sẽ tổ chức đại hội cúng tế, ta nên đến hỏi nơi Sa-môn Cù-Đàm để cho sự tổ chức không bị thiếu sót”.

Suy nghĩ xong, ông liền ra lệnh chuẩn bị, rồi ông đi xe ngựa trắng, có các thanh niên trai tráng, kẻ trước người sau, cầm dù lọng cán vàng, rầm rộ ra khỏi thành Xá-Vệ, tiến đến rừng Kỳ-Đà với lòng ngưỡng mộ. Khi phái đoàn tới trước cổng Tịnh-xá, họ xuống xe đi bộ đến trước đức Phật, cung kính vái chào, Bà-la-môn Trường-Thân nói:

- Thưa ngài Cù-Đàm, tôi muốn tổ chức đại hội cúng tế với bảy trăm con vật gồm có trâu đực, trâu cái, trâu con, dê đực, dê cái, dê tơ, và các con vật nhỏ bé khác. Đủ bảy trăm con vật, hiện đang nhốt, trói, hoặc cột ở nơi các cây cột. Cũng xin thưa, đây là đại hội tế lễ lớn nên có đủ các thành phần trong nước và ngoài nước đến tham dự, tôi lại được nghe đức Cù-Đàm là người thấu suốt đạo lý về tế tự; bởi vậy nên tôi đến đây thưa hỏi Ngài về cách tổ chức đại hội cúng tế, những gì cần phải làm, các loại súc vật nào cần phải có, và số lượng súc vật cần thiết là bao nhiêu? Thưa đức Cù-Đàm: xin Ngài chỉ bảo, để cho buổi tổ chức của tôi không bị thiếu sót.

Sau khi nghe trình bầy, đức Phật bảo Bà-La-môn Trường-Thân:

- Vì có đại hội cúng tế, người chủ muốn thực hành tế lễ, bố thí, làm phước, mà lại sinh tội, bị đâm cắt bởi ba thứ đao kiếm, chuốc lấy qủa báo dữ; ba thứ đao kiếm là gì ? Là: ý đao kiếm, miệng đao kiếm, và thân đao kiếm.

Thế nào là ý đao kiếm sinh ra qủa báo khổ?

Người chủ tổ chức tế lễ suy nghĩ rằng: “Cúng-tế cần phải giết nhiều trâu, nhiều dê, và nhiều các con vật nhỏ bé khác, đó gọi là ý nghĩ đao kiếm sinh qủa báo khổ”;người chủ đại hội làm các việc tế-lễ, bố thí, cúng dường là những việc hợp đạo lý, nhưng thực ra lại sinh tội lỗi vì người ấy có ý nghĩ muốn giết các con vật.

Thế nào là miệng đao kiếm sinh ra khổ?

Người chủ tổ chức đại hội bảo: “Hôm nay ta tổ chức tế lễ, các ông hãy giết bấy nhiêu trâu, bấy nhiêu dê, và bấy nhiêu súc vật nhỏ, các ông không được làm sai khác”,đó gọi là từ miệng mà sinh ra đao kiếm, và sinh ra quả báo khổ; người chủ đại hội mặc dù làm các việc cúng tế, bố thí, cúng dường là những việc tốt, nhưng thật ra lại sinh thêm tội lỗi vì đã sai bảo người khác giết hại các con vật.

Thế nào là thân đao kiếm sinh ra khổ?

Người tổ chức đại hội, tự tay mình sát hại sanh mạng các con vật, đó gọi là thân đao kiếm sinh ra quả báo khổ. Người chủ đại hội mặc dù làm các việc cúng tế, bố thí, cúng dường là những việc tốt, nhưng thật ra lại sinh thêm tội lỗi vì đã tự tay mình giết hại súc vật.

Ngài giảng tiếp:

- Những người nào tùy thời cúng lễ, bố thí, cúng dường, phụng sự ba thứ lửa, sẽ đem lại sự an lạc, ba thứ lửa ấy là gì? Một là lửa căn bản, hai là lửa gia cư, ba là lửa phước điền.

Thế nào là lửa căn bản?

Người nào có được tiền của do việc làm cần khổ và chính đáng, rồi đem một phần biếu cha mẹ, làm cho cha mẹ được an vui; đó là lửa căn bản.

Thế nào là lửa gia cư?

Người nào có tiền của do sự làm việc thu hoạch hợp pháp, rồi đem cung cấp cho vợ con, anh em, quyến thuộc, người giúp việc, kẻ hầu hạ. Người ấy tùy lúc tùy thời mà chu cấp cho họ, và đem lại sự an vui cho người thân thuộc họ hàng; vì người ấy sống trong gia đình, cùng thân bằng quyến thuộc, nên vui cùng vui khổ cùng khổ chia ngọt sẻ (san sẻ) bùi; đó là lửa cư gia.

Thế nào là lửa phúc-điền?

Người làm việc siêng năng kiếm được tiền của do sự làm việc lao nhọc, và thu hoạch hợp pháp; người ấy tùy thời cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn biết khéo điều phục tham sân si, cũng tùy thời bố thí cho kẻ nghèo cùng, đói khát, bệnh khổ. Cúng dường bố thí như thế là kiến lập ruộng phúc, hiện tại an vui, vị lai được qủa báo tốt sinh lên cõi Trời, đó gọi là lửa phước-điền.

Nhưng người thiện nam trước khi tế lễ, cúng dàng, bố thí ba thứ lửa nêu trên, hãy nên dập tắt ba thứ lửa khác; đó là lửa tham lam, lửa sân hận, và lửa tà kiến ngu si, vì sao? Nếu lửa tham lam không dứt, thì sẽ tự hại mình, hại người, cả hai đều bị hại; hiện tại đắc tội, đời sau đắc tội, do lòng tham lam sinh ra đủ thứ ưu phiền khổ não. Lửa sân hận, lửa tà kiến ngu si cũng giống như thế.

Tóm lại, khi tổ chức đại hội tế lễ hay cúng giỗ không nên giết hại súc vật; cúng giỗ, tế lễ chỉ dùng các thứ như: “Hương nhang đèn, bông hoa, trái cây, bánh kẹo, và những thức ăn không phải là súc vật, không phải là chúng-sanh”. Như vậy là làm đúng theo đạo lý cúng lễ, và đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho tất cả chúng-sanh (chúng-sanh trong 6 cõi gồm loài Trời, Thần Tiên Thánh, Người, Qủy Ma, Địa Ngục, và tất cả loài vật).

Sau khi nghe những lời giảng giải, Bà-la-môn Trường-Thân suy nghĩ trong giây phút, rồi quay qua bảo người con trai lớn:

- Uất-đa-La, con hãy đến chỗ các con vật, tất cả đều buông thả hết, và con nói với chúng rằng: “Bà-la-môn Trường-Thân cho phép các ngươi, sắp bị hy sinh tính mạng được tùy ý tự tại thênh thang ở núi ở đầm, ở rừng ở đồng hoang, hay bất cứ nơi đâu để tự kiếm thức ăn lấy, cỏ tươi tốt, nước suối trong, bốn bề gió mát, hưởng lạc thú an vui thoải mái”.

Rồi ông quay lại chắp tay nói :

- Thưa đức Cù-Đàm, con định lập đại hội tế lễ với đầy đủ bảy trăm con vật, nhưng nay con cho thả hết tất cả, để chúng được sống yên ổn, tự do đi lại. Thưa đức Cù-Đàm, con đã được Ngài cứu khỏi u mê tăm tối. Từ hôm nay cho đến hết đời, con xin quy y Ngài, quy y Pháp (lời dạy), quy y Tăng đoàn, và được làm Cư-sĩ trong Chính-Pháp của Ngài. Con sẽ tổ chức đại hội tế-lễ đúng theo như lời Ngài đã chỉ dạy, và cung thỉnh mời Ngài và Tăng-đoàn đến dùng cơm chay vào trưa ngày mai tại tư thất của con trong thành Xá-Vệ.

Bà-la-môn Trường-Thân: thấy đức Phật im lặng nhận lời, bèn lễ chào rồi cùng đoàn tuỳ tùng ra về chuẩn bị lại cho buổi tế lễ.

LỜI BÀN:

levatcungteHầu hết chúng ta không biết những tai hại xẩy ra giống như Bà-La-Môn Trường thân, nên khi tế lễ, cúng giỗ hay tết nhất thường lại giết súc vật nhiều hơn là lúc bình thường. Đọc xong bài “Lễ Vật Cúng Tế” này, người viết mong mỏi người đọc hãy suy nghĩ và áp dụng thì lợi lạc phúc đức không thể đo lường được. Nếu chúng ta không thể ăn chay được thì ít nhất mỗi khi tế lễ, giỗ tết, chúng ta không nên cúng bằng cách giết sinh vật để cúng. Chúng ta chỉ nên cúng bằng hương, hoa, quả, và thức ăn chay, việc này sẽ dẫn người hưởng sự cúng giỗ tế lễ theo đường lành.

Nên biết, sau khi chết, con người sẽ bắt buộc phải thọ sinh trong vòng 49 ngày, ngoại trừ người tu hành đạt đạo sẽ nhập Niết-Bàn an vui vĩnh cửu. Còn tất cả đều phải tuân theo luật luân hồi nhân qủa, dù muốn hay không muốn cũng phải thụ sinh vào một trong sáu cõi.

Nếu trong cuộc sống không tạo tội và làm các việc lành, sẽ được sinh lên cõi Trời; ở cõi Trời sung sướng mải hưởng thụ, đâu còn nhớ tới cõi trần hôi hám này nữa, nên có cúng các vị Trời cũng chẳng bao giờ màng tới, cúng cũng như không, ích gì; nếu cúng bằng cách giết sinh vật chỉ hại cho người cúng mà thôi.

Khi sinh vào cõi Thần, những vị này cũng có đời sống đầy đủ khá sung sướng, tuy phải làm việc cho các vị Thiên vương, nhưng không vất vả như con người. Các vị Thần có thể giúp chút ít, nhưng các vị ấy không giúp cho người làm ác, và không hưởng được nếu ta cúng tế bằng xác các con vật. Nếu ta cúng tế bằng hương, hoa, quả, và thức ăn chay, các vị ấy sẽ thọ hưởng được và sẽ hộ trì phần nào cho ta.

Nếu một người chết đi tái sinh trở lại cõi Người rồi, thử hỏi con cháu cúng có hưởng được gì không, chắc chắn là không hưởng được, phải không?; do đó nếu giết sinh vật để cúng giỗ, thì chính chúng ta mang tội giết sinh vật.

Khi một người chết đi sinh vào cõi Ma-Qủy, thường bị đói khát, vì cổ qúa nhỏ, ăn nuốt khó khăn. Đây chỉ là ăn tưởng tượng mà thôi, tức là chỉ tiếp xúc với vật thực. Nói là ăn, nhưng đâu có ăn như loài người bằng cắn, nhai, nuốt từng miếng, mà chỉ tiếp xúc vật thực, lưỡi, miệng, liếm, ngoạm nuốt tưởng tượng vật thực vào bụng, nhưng thực ra vật thực vẫn còn nguyên vẹn, mà Ma Qủy vẫn tưởng như có ăn, có hưởng vậy.

Nếu ta giết súc vật để cúng tế họ, ta mang tội, và tâm họ sẽ nhiễm cấu uế mà phải chìm xuống hơn ở kiếp sau hoặc vào Súc-sinh, hoặc vào Địa-ngục; còn nếu ta cúng bằng hương, hoa, quả và thức ăn chay, tâm họ sẽ nhẹ nhàng, sẽ được sinh làm Người, Thần, hoặc Trời.

Khi một người chết đi sinh vào cõi Súc-sanh cũng chẳng thể hưởng được gì khi ta cúng kiếng, vì đang là một con vật nào đó mà ta không biết; nếu ta giết súc vật để cúng, biết đâu rằng con vật bị hy sinh tính mạng đó chẳng phải là người mà ta cúng; thật là oan gia nếu đúng là như vậy, tốt hơn hết là tránh giết súc vật để cúng tế giỗ tết.

Khi một người chết đi bị đọa vào cõi Địa ngục rồi, cũng như bị cầm tù và bị hành hạ vô cùng khổ sở, người ấy không thể ra được mà về hưởng sự cúng kiếng; nếu giết súc vật để cúng người đó, tức là tạo nghiệp nặng thêm, chìm thêm và người đó sẽ phải ở Địa-nguc lâu dài hơn, mà ta cũng mang tội.

Tóm lại, nếu ta không ăn chay, đó là quyền tự do của ta, chứ không cúng giỗ tế lễ đồ mặn; vì nếu cúng đồ mặn xong ta ăn, sự làm ấy là vô minh, có hại cho các bậc tiền nhân mà ta cung kính lễ bái.

Một điểm nữa liên quan đến: sự đốt tiền giấy, vàng mã, chúng ta bị một số người mê tín, dị đoan lôi kéo dẫn dắt; vấn đề này cần đòi hỏi trí tuệ, có tâm bình tĩnh không sợ hãi mới dứt trừ bỏ được những điều vô lý. Đốt vàng mã, hình con này con kia, quần áo giấy, thậm chí cả đến đồ chơi bằng giấy; làm như vậy để làm gì? Những người làm các việc này nói rằng: “Để cho người chết dùng”. Nếu chúng ta tin ở Phật pháp thì không có chuyện linh hồn vưởng vất đâu đó, mà chỉ có cõi Ma-Qủy rõ ràng như vậy, Ma Qủy không dùng được các thứ ấy. Đây chỉ là sự tưởng tượng của một số người có tâm sợ hãi, tin bói toán mà ra, ta có làm cũng chỉ bằng thừa, phí tiền vô ích, và người trí tuệ nhìn vào sẽ chê cười là ta mê tín dị đoan nhảm nhí..,.

Toàn Không

(CÙNG TÁC GỈA)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2014(Xem: 11238)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
26/05/2014(Xem: 5626)
Tha lực theo nghĩa hẹp là lực tác động từ bên ngoài. Trong Phật giáo, tha lực là Phật lực hoặc Thánh lực (Bồ Tát) được tác ý làm cho nhân tốt trổ quả hoặc tạo nhân quả tốt cho chúng sanh hữu tình vì lòng bi mẫn của Đấng Thiện Thệ. Qua phương pháp phân tích văn bản đối chiếu hai nguồn Kinh tạng: Pali Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy) và Hán Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Đại Thừa). Bài tiểu luận này mổ xẻ hai chủ đề chính: tính tương đồng và logic giữa hai nguồn kinh tạng về tha lực.
14/05/2014(Xem: 5925)
1.1 Khái niệm về pháp niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ 1.2 Niệm Phật trong kinh điển Hán tạng và Nikaya 2.1 Ngài Huệ Viễn và pháp môn niệm Phật 2.2 Bốn cách niệm Phật của ngài Tông Mật (784-841) 2.3 Năm phương diện niệm Phật của Trí Giả Đại Sư 3.1 Vài suy nghĩ về pháp tu niệm Phật trong xã hội hiện đại 3.2 Tính chất giải thoát từ pháp môn Niệm Phật 3.3 Niệm Phật và lý tưởng Nhân Gian Tịnh Độ 4. Kết luận
13/04/2014(Xem: 9261)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
15/03/2014(Xem: 7423)
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
10/02/2014(Xem: 8115)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc
03/02/2014(Xem: 6612)
* Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con
26/12/2013(Xem: 10489)
Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống). Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn). Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng - Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến B
19/12/2013(Xem: 20248)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
17/12/2013(Xem: 12709)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567