Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính Lạy Đấng Thế Tôn

08/04/201315:46(Xem: 7661)
Kính Lạy Đấng Thế Tôn

Buddha_4
Kính lạy Đấng Thế Tôn

Thích Phổ Huân

Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài, bấy giờ mới có thể đủ thấy sự tán thán có ý nghĩa và không ý nghĩa!

Bạch Ngài, chúng con hiểu như vậy, cảm như vậy, nhưng vẫn xin được tán thán Ngài, dù lời tán thán kia chỉ là hư vô, chỉ trên đầu môi phát ra từ tâm thức chập chờn nửa tỉnh nửa say; lời tán thán chỉ có giá trị khoảnh khắc thời gian, rồi việc đâu vào đấy, chúng con lại trở về với si mê, sân hận của những phàm tình, ái ngã tự thân. Trong khi lời dạy của Ngài phải được lãnh hội qua sinh hoạt hành vi thường tình trong đời sống.

Hôm nay rằm tháng tư là ngày kỷ niệm xuất hiện giáng trần của Ngài trên cõi Ta Bà này, chúng con lần nữa xin được lập lại bao lời tán thán xưa nay. Chúng con thành thật biết rằng, tất cả chỉ là rổng tuyếch trống không, như người đứng một mình hoang vu giữa sa mạc gàu thét; nhưng dù vậy chúng con vẫn làm và sẽ làm mãi cho đến con không còn làm được! Vì sao? Bạch Ngài vì nếu không tán thán Ngài, thì làm sao chúng con biết được thế gian đau khổ này lại có sự hiện diện Ngài, có giáo lý Ngài, có sự vượt lên khổ, đi vào khổ, sống khổ, hiểu khổ, và giải thoát khổ. Nếu cho chúng con sống được ngàn năm, triệu năm, chúng con vẫn một lòng không thay đổi, để cứ mỗi năm rằm tháng tư về, chúng con nhất định không quên tán thán Ngài, và dù cho chúng con có sanh hay đọa vào thế giới nào nữa chúng con vẫn một lòng không thay đổi niềm tôn kính tán thán đức Thế Tôn.

Càng tán thán ghi niệm nhớ Ngài, càng thấy rõ thân phận chúng con, thân phận những người say mê chưa tỉnh. Rồi nhờ tán thán Ngài chúng con mới thấy rõ sự say mê phàm tục chính mình; sự say mê đã làm chúng con cách xa Ngài, không phải chỉ cách xa Ngài bằng thời gian hơn hai ngàn sáu trăm năm ở tận Thiên Trúc, mà cách xa Ngài từ ba cõi hằng vô lượng kiếp đến nay - và đâu phải Ngài cách xa chúng con, Ngài vẫn ở bên cạnh con, Ngài đã hằng hữu theo chúng con từng tâm niệm.

Chúng con hiểu rồi! Tất cả chỉ vì say mê nên đã tự làm cách xa Ngài; nhưng Ngài đã từng dạy, Ngài ở trong chúng con, chúng con cũng chẳng khác Ngài “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Ôi thật là mừng, vì xa mà chẳng xa, gần mà chẳng gần, tất cả chỉ là một niệm, trong tâm niệm chúng sanh. Hiểu như vậy mới thấy Ngài gần bên chúng con hơn, gần đến nổi chúng con tưởng chúng con là Ngài, rồi tưởng Ngài là chúng con! Thì ra Ngài dạy rằng chánh niệm, chánh giác, thanh tịnh, bình đẳng, vô ngại, bất nhiễm... đó là hình ảnh của Ngài, vậy thì trong chúng con đã giống Ngài không khác và Ngài có khác gì chúng con!

Bạch Ngài, lòng từ bi của Ngài còn có gì để so sánh, Ngài đã cứu chúng con vượt khỏi vô lượng hằng sa thế giới, thế giới vọng động phân biệt nhiễm tình, để một khoảnh khắc quay về thế giới nhứt như bất động, thế giới mà Ngài đã và đang an định. Đó là những suy tư, hiểu biết mà chính Ngài đã từ bi chỉ dạy cho chúng con, nay chúng con đang cố gắng hành trì, nguyện ghi nhận lời dạy của Ngài hóa thành hiện thực.

Bạch Ngài trên bước đường tu, chúng con vẫn luôn luôn tự nhắc sách tấn cho mình những điều hiểu biết như trên, bằng cách ngày ngày kinh kệ, thiền niệm, thúc giục chính mình thức tỉnh, ấy vậy mà vọng tưởng động tâm không làm sao ngưng động được. Chúng con vẫn biết rằng, không một sự thành tựu nào mà không trả giá hy sinh bằng mồ hôi nước mắt, huống chi sự thành tựu giải thoát luân hồi, quá sức phi thường phàm tục thế nhân. Biết thế chúng con đã sám hối, nỗ lực nguyện cầu thần lực của Ngài chứng minh cho những đàn con dại còn đang vô minh lạc lối. Nhớ trong bài sám Quy nguyện có đoạn: ... trí phàm phu tự lực khó thành cầu đại giác từ bi cứu độ; dù phải chịu muôn ngàn gian khổ, con quyết lòng vì đạo hy sinh... Bạch Ngài rõ ràng là vậy, các bậc đại sư tiền bối đi trước, vẫn nhận thức rằng tự lực quả là khó thành, nên cầu tha lực từ bi cứu độ, huống gì đời nay, đời sống đang bị vây bủa biết bao đam mê cám dỗ, vậy sức lực yếu hèn phàm tục như chúng con làm sao tránh được phan duyên nhiễm ái. Sự thật này mà lời chư Tổ xưa vẫn luôn được hòa tụng với chân kinh, để phần nào nhắc nhở khơi động cho kẻ hậu học hiểu rằng: đó là những vị luôn gia tâm tu hành tinh tấn, nhưng vẫn không thể không lên tiếng nguyện cầu Ngài gia hộ. Nhưng đây không phải nguyện cầu suông mà được, vì tiếp theo là: dù phải chịu muôn ngàn gian khổ, con quyết lòng vì đạo hy sinh.Thế ra phải hy sinh, phải chịu khổ mới thấy được lời nguyện của mình là chân nguyện, là hợp lý hợp duyên, như vậy cũng có nghĩa tha lực vẫn là tự lực; vì tha lực là một dòng sáng thanh tịnh lưu xuất từ Phật lực, mà tự lực lại bằng tâm nguyện chân thật thanh tịnh nơi tâm nên tỏa ra diệu lực hòa với thần lực, cả hai đều thanh tịnh chân như bất nhiễm. Thế nên tâm niệm tự lực lúc này không còn phân biệt khi đạt đến nhất tâm, đó là giai đoạn Phật tại tâm vậy.

Hiểu được như thế chúng con rất mừng, và không thể ngờ được hình ảnh từ bi trí tuệ, giáo lý siêu phàm của Ngài lại có thể xuất hiện được ở thế giới nhiễm tịnh này.

Thỉnh thoảng chúng con vẫn thường phân vân thắc mắc, làm sao trước khi thành Phật, địa vị Thái Tử như Ngài lại có thể từ chối dục lạc xa hoa, và chịu đựng được bao nhiêu thử thách trần thế trong thời gian tầm đạo. Chưa nói là không gian hoàn cảnh chung quanh Ngài, toàn là màu xanh hy vọng, màu sắc yêu thương... Người thân của Ngài có thể nói không ai là không thương quý Ngài; với công chúa Da Du Đà La một giai nhân tuyệt sắc, một hiền thê đức hạnh, thương yêu Ngài chẳng thể tả được, và ngay cả những người làm công, giúp việc như Sa Nặc cũng quý thương Ngài... Tóm lại là cả một khung trời thương yêu phủ khắp quanh Ngài, vậy mà Ngài vẫn có thể ra đi, sự ra đi còn thử thách hơn, khi tiếng khóc La Hầu La, tặng phẩm yêu quý nhất mà hiền thê đã tặng cho Ngài, nhưng Ngài vẫn tự tại chẳng hệ lụy nhiễm tình. Việc này nếu không phải vì một giáo pháp siêu tuyệt nhiệm mầu, sẽ độ vô số chúng sanh thoát ly sinh tử, thì chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ làm được. Vậy thì đúng rồi, Ngài quả thật phi phàm siêu xuất; nhưng, đó lại là điều tất nhiên của một Bồ Tát đang mang trong người đầy ắp tâm trí từ bi cứu độ chúng sanh.

Thế rồi muôn hoa đua nỡ, chim hót líu lo, cảnh vật hôm Ngài thành đạo, hóa hiện thành cõi thiên đàng tại thế. Với con mắt trần thế nhân gian, chắc chắn không thể thấy được, nhưng chư thiên, thiện thần ắt phải thấy rõ; niềm vui bấy giờ không chỉ có ở thế gian mà ở mấy tầng trời.

Rồi sau nầy niềm vui lan xa thêm, lan xa đến ba cõi; cho đến hôm nay niềm vui này đã đến với chúng con.

Bạch Ngài, chính nguyên do như vậy, cho nên chúng con mãi mãi sẽ không quên ánh sáng giải thoát của Ngài; và chúng con dù nói lên bằng lời thô thiển, trí lực mê mờ cũng còn may mắn dâng lên niềm ca ngợi tán thán sự xuất hiện của Ngài. Chúng con lại nghĩ, thương buồn cho hàng chúng sanh thấp kém không phải là người, không hiểu được thế gian hiện còn giáo lý giải thoát của Như Lai, để có thể học được hiểu được, kết duyên đời sau giải thoát.

Tình thương chúng con chỉ có thể cầu nguyện mà không thể tận lực cứu được chúng sanh khác như ý muốn. Nhưng điều này chư Phật, Bồ Tát đã hiểu tâm trạng chúng con, và hẳn các Ngài đã và đang cứu độ hàng chúng sanh này - dù vậy thế nào đi nữa, theo lời Ngài dạy, chỉ có chúng sanh cõi người mới đủ nhân duyên học Phật, hàng chúng sanh khác phải bị nhân quả nghiệp lực thọ mạng nghiệp báo khổ đau, khó thể sánh bằng hoàn cảnh nhân thiên. Do đó khi chuyển được kiếp người, đâu được mấy người hiểu Phật. Thực tế như vậy, mà hiện nay nhân số địa cầu người tin Phật có lẽ chẳng được một phần mười, rồi trong đó số người hiểu biết học tu, có thể chỉ một phần trăm, phần ngàn mà thôi. Thế thì nói rằng giáo pháp giải thoát vẫn còn trên thế gian, mà thế gian đâu có bao người hành được. Chúng con muốn nói hành được là chứng quả Thánh như thời tượng pháp vậy.

Thôi thì còn hiểu được còn biết được cũng là đại duyên, nguyện rằng chỉ cần nghe được giáo lý của Ngài dù chưa lãnh hội vẫn tạo duyên lành đời sau nhập đạo.

Riêng chúng con căn trí lu mờ sơ cơ vào đạo, lại vì nghiệp chướng sâu dày không thể thực hành được phần nào lời dạy của Ngài nên phiền não thường sanh, vọng tưởng thường phát, chỉ luôn nguyện rằng xin được tán thán Ngài để làm ánh sáng soi đường, nhắc nhở tấn tu bớt đi vọng động.

Hôm nay nhân mùa tháng tư, lễ kỷ niệm ngày Đấng Thế Tôn đản sanh xuất hiện ở thế gian này, bằng lòng kính mộ chúng con xin được kính dâng lên lời tán thán, với một tâm thành nhứt tâm cúng dường ca tụng, nguyện Ngài rũ lòng lân mẫn chứng minh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thích Phổ Huân

PL .2549

---o0o---
Trình bày: Tịnh Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 3299)
Nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba của Tây lịch. Nhưng từ đó đến nay, quả vị giác ngộ của Phật vẫn luôn luôn là thách thức lớn nhất đối với nhân loại – không phải vì quả vị ấy huyền bí, siêu hình hay không thực tế, mà vì mảnh đất thực tiễn của tâm ấy ít ai thử bước vào, thử nếm, thử trải. Do đó sự giác ngộ của Phật mãi mầu nhiệm trong ta.
05/01/2011(Xem: 3385)
Niết-bàn không phải là sự vật mà là một trạng thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của tâm. Cho vô ngã là niết-bàn chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật là niết-bàn, hay nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô ngã.
30/12/2010(Xem: 5474)
Thiền tập Phật Giáo là cần thiết trong trường học do những lợi ích thiết thực của nó. Nhưng có những gì hơn thế ấy. Khi tín ngưỡng trong trường học từ mọi truyền thống tiếp tục chiếm những đề mục nổi bật hàng đầu, thì quan điểm của một nền giáo dục đặc biệt của Đạo Phật không phải tranh cải nhiều. Những sự thực tập căn bản của trường học gợi hứng từ Đạo Phật, trái lại đang bắt đầu đạt được sự thúc đầy.
29/12/2010(Xem: 4581)
Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán”. Bằng trí tuệ siêu việt của bậc giác ngộ đã khai thị cho chúng ta thấy được muôn sự muôn vật tồn tại trên thế gian này đều là mộng ảo hư huyễn giả tạm, như bọt sóng, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp, tạm bợ vô thường không tồn tại lâu dài, vật lớn như sơn hà đại địa cho đến thân mạng cũng đều như vậy, tất cả đều phải tuân theo một qui luật chung là Thành Trụ Hoại Không hay Sanh Trụ Dị Diệt. Đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, không đáng để tham luyến khổ đau.
19/12/2010(Xem: 6286)
Khi tôi là một thiếu niên ở Tây Tạng, tôi cảm thấy rằng đạo Phật của chính tôi phải là một tôn giáo tốt nhất - và những tôn giáo khác là kém hơn làm sao ấy. Bây giờ tôi thấy tôi đã ngây thơ như thế nào vậy, và nguy hiểm như thế nào mà sự cực đoan thiếu bao dung tôn giáo thể hiện ngày nay.
17/12/2010(Xem: 4721)
Dù thế nào chăng nữa thì mọi cuộc đời đều quý báu. Trước hết, quý báu có nghĩa là gì? Trong Phạn ngữ, từ ratna để chỉ cho sự quý báu. Trong tiếng Tây Tạng, ratna đôi khi được dịch là konchog và có lúc được dịch là rinpoche. Đôi khi từ này được dịch ngắn gọn là rinchen. Những lúc khác được dịch là norbu, có nghĩa là viên ngọc quý. Vì thế, tiếng Tây Tạng thật phong phú khi diễn tả những thuật ngữ tâm linh khác nhau.
15/12/2010(Xem: 4143)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiện và đạt được giác ngộ. Bởi phật tính là bản chất tinh khiết và giác ngộ thực chất của chúng ta mà chúng ta có thể hoàn thiện và vượt qua bất cứ ô nhiễm nào. Đức Phật đã chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của Ngài về điều này, không chỉ công nhận thực tế phật tính tồn tại trong tất cả chúng sinh, mà còn dẫn dắt chúng ta để đánh thức khả năng vô hạn và bẩm sinh này cho tới khi chúng ta đạt được sự tỉnh giác trọn vẹn về phật tính của chính mình, và tự chúng ta trở thành những vị phật giác ngộ.
10/12/2010(Xem: 11677)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
08/12/2010(Xem: 4239)
Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ tát đạo Ẩ về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm linh.
05/12/2010(Xem: 8169)
Lịch sử nhân loại nhìn từ một khía cạnh nào đó chính là lịch sử của tư duy con người. Các biến cố lịch sử, chiến tranh, sự tiến bộ về mọi mặt, các thảm kịch..., tất cả phản ảnh bản chất hoặc tiêu cực hoặc tích cực của tư duy con người. Các danh nhân, các nhà cách mạng, các tư tưởng gia..., đều là các vĩ nhân đại diện cho những tư duy tích cực. Thảm kịch, bạo ngược, chiến tranh tàn khốc... phát sinh từ những tư duy tiêu cực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567