Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghĩ về Thân và Thù

18/01/201203:55(Xem: 5875)
Nghĩ về Thân và Thù

hoasenvang_1NGHĨ VỀ THÂN VÀ THÙ
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 11/10/2011

NGHĨ VỀ THÂN VÀ THÙ

BƯỚC NỀN TẢNG

Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ.

- Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1]

Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác. Thí dụ, khi một người bạn thân ngã bệnh, cảm giác từ ái và bi mẫn, nguyện ước của chúng ta rằng con người này được tự do khỏi bệnh đau và được hồi phục sức khỏe, là mạnh mẽ hơn nó có thể là cho một người chỉ quen biết, hay cho ai đấy mà chúng ta không thích. Loại từ ái và bi mẫn này bị lẫn lộn với khao khát theo đuổi một lợi ích nào đấy cho chính chúng ta.

Nếu một người trước đây tướng mạo hấp dẫn với cá tính vui vẻ dễ thương đánh mất bề ngoài hay tính tình ấy đi, thì thiện ý để cảm tình với người ấy có thể biến mất. Nhưng nếu chúng ta có một cảm nhận từ bi cho một người xấu xí, thế thì bất kể dung mạo người ấy thay đổi như thế nào đi nữa, cảm nhận từ bi không bị rơi rớt. Trong thí dụ lòng thương yêu bi mẫn thứ nhất lẫn lộn với tham dục: người ấy lôi cuốn chúng ta (hay nói đúng hơn đây là luyến ái). Tâm chúng ta đã thổi phồng những đặc trưng dễ thương của người ấy vì thế tham dục phát sinh, và chúng ta cảm thấy một lòng ước ao khao khát, một hổn hợp của lòng mật thiết và mong ước làm nhỏ đi bất cứ nổi khổ đau nào mà người ấy đang chịu đựng. Tuy nhiên, lòng bi mẫn thuần khiết không thành kiến hay cục bộ; nó hoàn toàn thấm nhuần với hành xả và hoàn thiện cả bạn và thù.

Không có nhận thức bình đẳng, từ ái và bi mẫn không định kiến thậm chí không thể khai triển được. Một khi chúng ta đã phát sinh một thái độ bình đẳng đối với tất cả, sau đó nó mới có thể nhìn không chỉ những người bạn mà những người trung tính (chẳng ghét-thương) và ngay cả những kẻ thù với một sự mến yêu rộng rãi. Điều này không dễ dàng. Thật khó khăn để phát triển một cảm giác thân cận đến mọi người. Thiền quán phản chiếu là cần thiết.

BÌNH ĐẲNG

Bắt đầu bằng việc chú ý rằng trong tâm, chúng ta có ba đặc trưng chính cho con người - bạn, người trung tính, và kẻ thù. Chúng ta có thể có nhiều thái độ đối với họ, nhưng ba loại trên là sự quan tâm của chúng ta ở đây - tham dục, dửng dưng sinh khởi từ sự thờ ơ, và thù hận, tương ứng cho từng thứ. Khi bất cứ một thứ nào trong ba thái độ này hiện diện, thì không thể phát sinh một cảm giác gần gũi với mọi người. Tham dục, thù hận, và dửng dưng phải được làm cho trung hòa.

THIỀN QUÁN

Ở đây là việc chúng ta có thể trau dồi hành xả trong thiền quán như thế nào.

1- Quán tưởng một người bạn, một người thù, và một người trung tính một cách đồng thời.

2- Thẩm tra cảm giác của chúng ta để thấy ai đang được ôm giữ một cách thân thiết và ai được xem như là xa cách. Chúng ta cảm thấy gần gũi tự nhiên với bạn chúng ta; việc quan tâm đến kẻ thù, chúng ta không chỉ cảm thấy xa cách mà đôi khi cũng là giận dữ hay phát cáu; chúng ta không cảm thấy gì cho người trung tính hay không quen biết. Khảo sát tại sao.

3- Xem xét có phải người bạn xuất hiện thân cận bởi vì cô ta đã hổ trợ chúng ta và bè bạn chúng ta.

4- Xem xét có phải kẻ thù xuất hiện xa cách bởi vì người ấy đã làm tổn hại chúng ta và bè bạn chúng ta.

5- Xem xét có phải chúng ta cảm thấy dửng dưng đối với người trung tính bởi vì người ấy không giúp đở cũng không làm tổn hại chúng ta và bè bạn chúng ta.

6- Nhận ra rằng, giống như chính mình, tất cả những người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, và trong cung cách quan trọng này, họ là bình đẳng.

7- Duy trì với nhận thức này cho đến khi nó chìm sâu vào trong tâm hành giả.

LÀM NỔI BẬT

Nếu chúng ta mở ra khả năng rằng sự tái sinh trong quá khứ và tương lai qua một sự tương tục của đời sống có thể xảy ra, chúng ta có thể làm nổi bật nhận thức bình đẳng bằng việc lưu tâm đến quan hệ mật thiết của tái sinh. Một sự tương tục của các đời sống có nghĩa là những sự tái sinh không có sự bắt đầu. Qua tiến triển của nhiều kiếp sống, mọi người có thể đã từng ở trong nhiều loại quan hệ với nhau. Chúng ta không thể chắc rằng những ai bây giờ là bè bạn đã luôn luôn là bằng hữu trong quá khứ và những ai bây giờ là kẻ thù đã luôn luôn là những người thù địch của chúng ta. Ngay cả trong một đời sống này, có những cá nhân, người trước đây là kẻ thù nhưng sau này biến thành thân hữu, và những người khác đã từng là bạn hữu nhưng sau này trở thành những kẻ thù. Việc nhìn vào tương lai, không có lý do gì tại sao một kẻ thù phải mãi là một người thù địch và một người bạn sẽ phải mãi mãi là một bằng hữu. Bè bạn, kẻ thù, và những người trung tính là bình đẳng bởi vì họ có thể đổi chỗ thay thế cho nhau từ vai trò này sang vai trò nọ.

Kết quả là, không có cách nào để quyết định sau cùng một cách hoàn toàn rằng một người nào đấy là kẻ thù vĩnh viễn của chúng ta và do thế, phải nên loại bỏ, hay là một người nào đó là bạn hữu vĩnh viễn và vì thế phải được yêu mến , hay rằng ai đấy sẽ luôn luôn là một người trung tính xa lạ và do thế phải được đối xử một cách dửng dưng. Đúng hơn, tất cả đã hành động một cách đồng đẳng như những kẻ thù, bạn hữu, và trung tính. Nếu ai đấy làm tổn hại chúng ta năm trước nhưng giúp đở chúng ta năm nay, và một người khác giúp đở chúng ta năm rồi nhưng lại làm tổn hại chúng ta hiện tại, họ là như nhau, có phải thế không? Đây là tại sao thật vô lý trong việc nhất quyết lưu tâm một người nào đấy chỉ là bạn hữu và một người khác chỉ là kẻ thù, hay chỉ là trung tính. Cấu trúc căn bản của đời sống là không hoàn toàn ổn định: đôi khi chúng ta thành công, thỉnh thoảng chúng ta thất bại. Mọi thứ luôn luôn thay đổi, thay đổi và thay đổi. Thế đấy, chúng ta trải nghiệm những cảm giác cứng nhắc và ổn cố đối với bạn bè, và kẻ thù như vậy là sai lầm một cách đơn giản. Phản chiếu trên điều này sẽ dần dần đưa tâm chúng ta đến hành xả (buông bỏ những chấp trước).

THIỀN QUÁN

1- Suy xét rằng ngay cả trong khoảng thời gian của tuổi thọ kiếp sống này, không chắc chắn rằng những cá nhân đặc biệt nào đấy sẽ luôn luôn là bạn hữu, kẻ thù, hay trung lập. Quán chiếu những thí dụ của điều này từ chính đời sống của mình - một người trung lập đã trở thành một người bạn; một người trung lập trở thành một người thù; một người bạn trở thành trung lập, hay một người thù; một người thù trở thành một người bạn.

2- Quán tưởng ai đấy hiện tại là một người trung lập và tưởng tượng rằng cô ta đem đến sự giúp đở và là tổn hại trong những kiếp sống quá khứ.

3- Tưởng tượng một người bạn đã giúp đở nhiều trong kiếp sống này đã đem đến tổn hại cho mình trong một kiếp sống trước và là trung lập vào những lúc khác.

4- Tưởng tượng rằng một người thù đã tổn hại mình trong kiếp sống này là trung lập trong một kiếp sống nào đây và đã đem đi đem lại nhiều lần những lợi ích trong những lúc khác.

5- Hãy thấy rằng trong nhận thức dài lâu của nhiều kiếp sống, bạn bè, kẻ thù, và người quán sát trung lập tất cả đều bình đẳng giúp đở và gây hại cho mình hay bạn bè mình, vì thế không thể kết luận rằng họ chỉ độc nhất là thứ này hay thứ kia.

6- Nhận ra rằng trong dạng thức trong sự giao hảo của tiến trình dài lâu của sự tái sinh không có khởi đầu, không ai trong chúng ta có thể quyết định rằng ai đấy người đã giúp đở hay tổn hại chúng ta trong kiếp sống này đã, đang và sẽ làm như thế trong mọi kiếp sống.

7- Quyết định rằng thật không đúng để chỉ ra một người cho sự thân thiết, một người khác cho trung lập dửng dưng, và một người nữa cho sự ghét bỏ.

Phản chiếu cách này, làm sâu sắc ý nghĩa cảm nhận bình đẳng đối với bè bạn, kẻ thù, và người trung lập.

Dường như có thể thiết yếu hơn để quan tâm những gì người khác đang làm cho mình hay đến mình trong hiện tại hơn là những kiếp sống trước đây, nhưng việc này không như vậy. Như chúng tôi đã chỉ, vị thế một cá nhân như bạn hay thù có thể thay đổi ngay trong một kiếp sống. Sự giúp đở hay tổn hại từ một người khác là tạm thời, và chỉ thời gian mà thôi thì có thể không phải là cơ sở cho việc chọn lựa sự mật thiết hay ghét bỏ. Hãy quyết định rằng thật không thực tế để khao khát một cách mãnh liệt những ai hiện tại giúp đở mình và thù ghét dữ dội những người hiện tại đang làm tổn hại chúng ta.

KỶ NĂNG HỔ TRỢ

Khi chúng ta quán chiếu vấn đề này, sự thấu hiểu cuồng nồng nhiệt về những người như bạn bè và những người khác như kẻ thù, và sự phát sinh hợp lý của khát vọng và thù ghét, sẽ trở nên yếu ớt hơn trong sức mạnh. Tuy thế, để mang mối quan hệ mật thiết của những thiền quán này về tổ ấm, thật hữu ích để phản chiếu trong một khung cảnh gây ấn tượng sâu sắc hơn.

1- Quán tưởng hai người.

2- Tưởng tượng rằng một người đang vung quả đấm vào hành giả.

3- Phản chiếu trên lý do cho việc trở nên khó chịu: hành giả dường như ở trong một hiểm họa sắp bị đánh.

4- Tưởng tượng một cách năng động rằng người thứ hai cùng lúc ấy đang làm điều gì đấy dễ chịu cho chúng ta - cầu nguyện cho chúng ta, tặng phẩm vật cho chúng ta, hay vuốt ve cánh tay chúng ta.

5- Thẩm tra tại sao chúng ta quá hài lòng với điều này. Đó là qua một tinh cảnh tạm thời ngắn ngủi mà chúng ta quá thích ý.

6- Thấu hiểu điều này, lưu ý rằng những phản ứng của chúng ta với sự quan tâm đến bạn bè hay kẻ thù là không sâu sắc lắm.

THIỀN QUÁN KẾT LUẬN

Không có gì chắc chắn rằng một người bạn, một người thù, và một người dưng sẽ mãi mãi lúc nào cũng giúp đở, gây hại, hay không gây hại cũng không giúp đở. Khi những tư tưởng và động cơ tiêu cực chẳng hạn như thù hận hay giận tức hiện diện, ngay cả một người bạn cũng được thấy như một người thù, nhưng khi những tư tưởng đối với một người thù biến mất, thì kẻ thù trở thành một người bạn. Phản chiếu trên những điều sau đây:

1- Từ quan điểm của chính họ những người bạn, những kẻ thù và những người trung tính là đồng đẳng, muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.

2- Từ quan điểm của chính chúng ta mỗi một người trong họ đã từng là bạn của chúng ta trong vô số kiếp sống từ vô thì luân hồi sinh tử và chắc chắn sẽ lại giúp đở chúng ta trong tương lai; mỗi loại người ấy là trung lập một cách bình đẳng.

3- Vì vậy, từ bất cứ phía nào được quan tâm, chính chúng ta hay những người khác, không có điểm nào trong những nhận thức thổi phồng về thân thiết và chán ghét. Chúng ta không nên đánh giá người này như căn bản là tốt và người nọ là xấu, mặc dù những hành vi của người ấy có thể là tốt hay xấu, hữu ích hay tai hại. Không có lý do gì để tử tế với người này và cáu kỉnh với người nọ. Mặc dù đúng là những cá nhân tạm thời là bạn bè hay thù địch - giúp đở hay tổn hại - thật không đúng để phân biệt bất cứ người nào với thích thú hay thù ghét.

Thật quan trọng để diễn tập những thiền quán phản chiếu này với những người đặc thù trong tâm và không chỉ hướng đến tất cả chúng sinh, toàn bộ thì quá lờ mờ để ảnh hưởng một sự thay đổi thật sự của thái độ. Bằng việc làm việc trên những cá nhân, chậm rãi mở rộng cảm giác này ra ngày càng nhiều người hơn, chúng ta sẽ phát triển một cảm nhận xả buông đối với toàn thể thế giới đời sống.

Qua thiền quán này, cuối cùng chúng ta đi đến tại một điểm, nơi mà sự phát sinh những cảm giác mạnh mẽ của khát vọng hay thù hận xuất hiện là vô nghĩa. Thành kiến yếu đi, và chúng ta thẩm định rằng sự phân loại con người một cách cứng nhắc như bạn bè hay kẻ thù đã là một sai lầm.

Giống như làm láng một bức tường trước khi vẽ lên một bức tranh hay chuẩn bị một cánh đồng trước gieo trồng, việc trau dồi một cảm nhận chân thật về tính bình đẳng cung ứng một nền tảng cho bước tiếp theo trong con đường để yêu thương từ ái: công nhận tất cả chúng sinh như nhữn người bạn thân thiết. Bây giờ trau dồi tính bình đẳng sẽ phục vụ như nền tảng cho từ ái.

Nguyên tác: Foundation Step: Viewing Friend and Foetrích từ quyển How to Expand Love
Ẩn Tâm Lộ ngày 22/10/2011

Bài liên hệ:

1- Quan điểm của tôi

2- Những giai tầng phát triển

3- Tịnh hóa tâm thức

4- Nghĩ về thân và thù



[1]Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2015(Xem: 6080)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 6658)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
22/01/2015(Xem: 10081)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
08/01/2015(Xem: 7874)
Nguyện con đến lúc sắp lâm chung Diệt trừ tất cả các chướng ngại Tận mặt gặp Phật A Di Đà Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
07/01/2015(Xem: 8728)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
25/12/2014(Xem: 8076)
Là phật tử không gì quý hơn, vui hơn, an lạc hơn, giải thoát hơn được học hiểu chút chút các kinh đại thừa liễu nghĩa của Đức Phật dạy. Quy y Tam Bảo, tụng kinh nghe kinh, nghe thuyết pháp, đi chùa hơn 37 năm mà không biết kinh Phật dạy có 2 loại : kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa.
01/12/2014(Xem: 11188)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
19/11/2014(Xem: 14672)
Ngài pháp sư Tịnh Không, một cao tăng đương thời có nói: "Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng với mọi thời đại. Từ ba ngàn năm trước, những kinh điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những kinh điển ấy, chúng sinh ngày nay vẫn được thọ dụng y hệt chẳng khác biệt gì. Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nên cần phải có giải thích lại, nghĩa là hiện đại hóa địa phương hóa kinh Phật để thích ứng căn cơ đương thời."
08/11/2014(Xem: 14777)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa.
07/11/2014(Xem: 11031)
Tôi có một người bạn cùng tu tịnh nghiệp. Ngoài việc làm Phật sự tại các chùa, thường hay niệm Phật cầu sinh Cực Lạc. Bạn tôi rất thích đọc kinh và nghe Pháp, nên tôi cứ nghĩ là anh đã thông hiểu pháp môn Tịnh Độ. Nhưng không dè, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, bạn tôi lại lo lắng than, chưa đạt nhất tâm và sợ sẽ không được vãng sinh Cực Lạc! Là tín đồ Tịnh Độ mà khi chết lại hồ đồ như thế thì thực là đáng tiếc!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567