Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Ngã, Chân Lý Thực Tại Của Cuộc Sống

07/06/201103:21(Xem: 4417)
Vô Ngã, Chân Lý Thực Tại Của Cuộc Sống
VÔ NGÃ, CHÂN LÝ THỰC TẠI CỦA CUỘC SỐNG
Thích Nhật Hiếu

Từ thế giới vật chất ngoại tại - khách quan cho đến thế giới tâm thức nội tại - chủ quan đều là vô thường, mang tích chất “hoà hợp” và “tương tục” của “duyên sinh vô ngã”. Với thế giới xiêm la vạn tượng này, vật chất luôn vận động, núi đổi, sông dời,…; cũng vậy, một đời người rồi ai cũng chết; thân này là do Ngũ uẩn (Pañña-cupādanakkhandha): sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại mà hình thành, tương tục, sanh khởi và hoại diệt; nên gọi là “không”, là “vô ngã”.

Long Thọ Bồ tát làm sáng tỏ ý tưởng trên trong Trung Quán Luận: “Tất cả những gì được tác thành bởi nhân duyên, đều là không, là giả danh; đây cũng chính là giáo nghĩa của Trung đạo.” (Chúng nhân duyên sanh pháp, Ngã thuyết tức thị không, diệt vi thị giả danh, thị thật Trung đạo nghĩa.)

Nguyên lý bất di bất dịch của tất cả những gì được hiện hữu ở cõi đời đều không ngoài qui luật “sinh thành”, “hoại diệt” và ngược lại. Đối với vũ trụ là “thành - trụ - hoại - không”, với nhân sinh là “sinh - trụ - dị - diệt”. Tất cả đều do nhiều yếu tố, điều kiện (trùng trùng duyên khởi) hình thành nên, không có đặc tính “một cái ngã bất biến và độc lập” nào tồn tại ở đây!

Chính vì vậy mà giáo pháp Phật-đà đã khẳng định: “Chỉ có pháp vô thường, sinh diệt mới là thường; một khi hiện trạng sinh diệt không còn mới thật là vĩnh viễn an lạc.” (Vô thường thị thường, thị sinh diệt pháp; sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc.)

Xa lìa mọi sự chi phối, tác động của sinh thành và hoại diệt chính là trạng thái siêu việt, là mục tiêu “liễu sinh thoát tử” tối hậu của đạo lộ giải thoát. Chỉ có khả năng của một vị đã đạt đển cảnh giới của “tâm giải thoát” và “tuệ giải thoát”, một vị A-la-hán đã hoàn thành sứ mạng, hoàn thiện tư cách, thành tựu công đức, thể nhập và thân chứng vào cảnh giới của ngã không - pháp không: “sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không trở lại Tam giới nữa.” (Ngã sinh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu.) Hành trạng của một vị A-la-hán đi vào cảnh giới Niết-bàn bất tử.

Đức Phật khẳng định về sự thật này là: “Duyên sanh pháp là các pháp được tác thành, hữu vi, biến hoại, tan rã, đoạn diệt, vô thường.”[1]Hay “Tất cả các pháp hữu vi (những gì được tác thành) đều là vô thường.”[2]

Bộ mặt thật của cuộc đời từ thế giới hiện tượng (vật lý) đến thế giới tâm thức (tâm lý) đều đang vận hành, trôi chảy không ngừng như một dòng sông luân lưu bất tận. Dòng chảy của hôm qua không phải là dòng chảy của hôm nay; ngược lại, dòng chảy của hôm nay lại càng không phải là dòng chảy của ngày mai. Không ai có thể quay ngược hoặc bắt bánh xe thời gian đứng yên. Cũng vậy, dòng chảy xiết của thế giới hiện tượng và thế giới tâm thức đang vận hành không có điểm dừng (hằng chuyển như bạo lưu). Đây là một sự thật mang tính thực tại, thế giới vật chất cũng như tinh thần luôn đổi thay với thiên hình vạn trạng.

Nhà Hiền triết Héraclicte đã nhận định: “Không ai có thể đặt chân hai lần trên một dòng nước”. (No man can enter into the same river twice.)[3]

Bản chất của chúng bất ổn như vậy, nhưng phần nhiều chúng ta không hiểu, nên khi có biến cố xảy ra, ta hoang mang, đau khổ,… Một người sáng suốt phải nhận thấy như thật (yathabhutaṃ), sự vật đang là (To their appearances as they really are), vô thường (aniccā), khổ (dukka) và vô ngã (anattā).

Thế nhưng, con người lại luôn ở trong vòng lẫn quẩn, vòng xoáy của cuồng lưu dục vọng này, như cá cắn phải câu, như chim mắc phải lưới. “Cá trong lờ đỏ lơ đôi mắt, cá ngoài lờ lại ngúc ngắc chui vô.” Hay điều nghịch lý như người khát nước trên biển uống phải nước mặn, càng uống càng khát; như trẻ con ngây thơ đang đùa giởn trong nhà lửa,… Thật sự ham vui khổ vô cùng!

Chính vì vậy mà với chí nguyện tầm cầu chân lý giải thoát cho chúng sinh, nhưng sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, Đức Thế tôn lại than: “Pháp mà ta đã thể nhập và thân chứng (Pariyogathena), thật là vi diệu, đưa đến sự tịch tỉnh cho tâm thức, là cao thượng, không thể chứng ngộ bằng con đường suy lý, khó nhận thức, chỉ có người trí mới thấu hiểu. Thế nhưng, chúng sinh bị cuốn hút vào ái dục, xu hướng theo ái dục, ham thích theo ái dục; vì vậy, thật khó thấy được lý Duyên sinh (Idapaccayatā Paticcasamup-pāda). Đối với họ, sự khó khăn nhất là tịnh chỉ tất cả các hành, từ bỏ mọi Sanh y (hữu ái), ái diệt, ly tham, tịch tịnh, Niết-bàn!”[4]

Nếu ái dục là động cơ cho mọi hệ luỵ khổ đau của cuộc đời, thì tư duy hữu ngã, quan niệm tư duy về cái ta, cái tôi tư kỉ, hẹp hòi,… là hệ quả tất yếu làm nảy sinh tham dục, sân hận và si mê. Khi 6 căn ta tiếp cận thế giới khách quan do 6 trần, ta luôn luôn bị chúng mê hoặc, không sao làm chủ. Ta bị nô lệ, bị xử khiến bởi chúng. Ta da diết, ta oằn quại khổ đau. Ta trôi nổi trong luân hồi sinh tử lục đạo, ác thú.

Đức Phật đã cảnh tỉnh: “Cho đến khi nào, Ta chưa như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi sáu căn này, cho đến khi ấy, Ta không biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác… Cho đến khi nào, Ta như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi sáu căn này, cho đến khi ấy, Ta mới nhận biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đối với các thế giới, như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.”[5]

Cái thân lục căn, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới này là một tập hợp của các yếu tố tác thành nên. Nó không phải là một cái ngã độc lập hoặc bất di bất dịch, mà mang yếu tố tổ hợp và mang tính sinh thành và hoại diệt theo nguyên lý duyên khởi. Thế nhưng chúng ta phần đông không nhận thức và chấp nhận chân lý này. Mà trái lại nghĩ rằng mình là nhân vật trung tâm của vũ trụ, mình là sống mãi không chết, mình là tất cả, mình là bá chủ của toàn cầu. Mọi người phải tùng phục dưới chân mình. Thuận ngã giả sinh, nghịch ngã giả vong! Ngược lại, một khi những cá nhân khác bị xúc phạm, theo nguyên lý của bản năng đấu tranh để sinh tồn thì những cái ta cái tôi khác đâu thể ngồi im khoanh tay chờ chết, tất nhiên là đối kháng lại để tự vệ cho chính mình. Thành ra cuộc sống nhân thế là bãi chiến trường đầy chết chóc trong muôn thuở. Tư tưởng bại hoại và điên cuồng này đã gây bao bất hạnh cho mình và người!

Đức Phật lại xác quyết rằng: “Chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu Giáo pháp duyên khởi này, mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như tổ kén, rối ren như ống chỉ,… không thể nào thoát khỏi khổ xứ, ác thú, đoạ xứ sanh tử.”[6]

Như một hồi chuông cảnh tỉnh những kẻ đang say vùi trong giất ngủ miên viễn của vô minh và ngã chấp, đức Phật dạy: “Những gì thuộc về quá khứ, hiện tại và vị lai,… tất cả sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chư vị nên như thật thấy với chánh trí tuệ như sau: “Đây không phải là của tôi! Đây không phải là tôi! Đây không phải là tự ngã của tôi!”[7]

“Do biết như vậy, thấy như vậy đối với thân có thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có quan điểm: ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên.”[8]

Sự thật của cuộc đời là vô thường, vô ngã không thể chối cải được. Nhưng con người mãi bám bếu vào những thành kiến Hữu ngã đầy si mê: nào là tài sản của tôi, người yêu của tôi, tôn giáo của tôi, chủ nghĩa của tôi,v.v… và muôn ngàn cái tôi khác. Tôi sẵn sàng hy sinh cho những gì mang thuộc tính và sở hữu của tôi; và tôi sẽ tiệt tiêu, thanh toán, thôn tính bất cứ những ai dám cản trở tôi. Như vậy, chính vì cái Tư duy hữu ngã này (Self thought) hình thành nên bao nguy cơ, bất an cho xã hội loài người; không hiểu rằng:

“Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu”[9].

Sống không phải còn mãi, nhưng chết đâu phải mất đi! Sự sống chết của cuộc đời cũng chỉ là sự biến thái biểu hiện trong nhất thời vô cùng sống động, chuyển giao giữa cái quá khứ chuyển tiếp đến hiện tại, giữa cái hiện tại diễn tiến cho tương lai. Chính vì vậy mà sống không nên chủ quan, mà chết cũng chẳng có gì phải bi quan. Vì rằng sống chết là một lẽ thường tình, tất yếu, mà người tu đã làm chủ được quá trình diễn tiến cho cuộc sống tái sinh này, tự tại dung thông, chủ động cho sự đến và đi, cuộc sống mới này là cuộc sống hướng thượng, không trôi nổi trong chốn u đồ khổ não, đoạ lạc trầm luân. Thế nên, người tu Phật luôn có cái nhìn tuệ giác bất động, bất biến giữa dòng đời vạn biến:

“Xá chi suy thạnh việc đời,
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.”
(Mạc vị thạnh suy vô bố uý,
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.)[10]

Ý thức như vậy, chánh niệm như vậy, tuệ tri như vậy! Từ ý thức sống đầy sáng suốt và kiên định như vậy, đã định hướng cho mọi hoạt động và hành vi ứng xử, ở với đạo sống với đời một cách trọn vẹn. Tinh thần Vô ngã giúp cho chúng ta có một cuộc sống trong sáng, không vì cái “Ta” tạm bợ này mà phải bi lụy khổ đau.

“Nhờ trí tuệ quán chiếu,
Thấy pháp Vô ngã rồi,
Thế là hết khổ thôi,
Đây chính là đường thanh tịnh.”[11]

Đức Phật đã khẳng định: “Ai thấy Duyên khởi (vô ngã) là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Ta (Phật).”[12]

Duyên khởi Vô ngã là chân lý thực tại (Absolute truth). Mặt trời mọc hướng Đông và lặn hướng Tây là một chân lý thiên nhiên; cũng vậy, nguyên lý Duyên sinh vô ngã (anattā paticcasamu-pāda) là một sự thật uyên nguyên ngàn đời. Từ muôn loài tinh tú trong vòng thái dương hệ cho đến con người, con vật, cỏ cây,v.v… đều sinh thành và hoại diệt trong mối tương quan bất tận trải dài trong vô ngôn.

Đức Phật dạy: “Này chư vị, dầu chư Phật có xuất hiện hay không xuất hiện, có một sự kiện, một chân lý nhất định, một định luật tự nhiên là tất cả các pháp vô thường (aniccā), khổ não (dukkha) và vô ngã (anattā). Như Lai đã quảng bá, truyền dạy, xác định, phân lập và chỉ dẫn.”[13]

Vô ngã là sự sống trong sáng, là chân trời giải thoát, là tên gọi khác của Niết-bàn. Cuộc sống lý tưởng phải là Vô ngã, quên cái Ta đi để hoà mình vào chung sống với mọi người, với vạn vật sinh thái đất trời bao la.



[1]Tương ưng bộ II, Phẩm đồ ăn, XX, Duyên, bd. HT. Thích Minh Châu, xb.1992, tr.53

[2]N’etammam; Nēso ham asmi; Na me so attā.

[3]Lịch sử triết học Tây phương, tg. Lê Tôn Nghiêm, nhà xb Lá bối 1972, tr.118

[4]Vinaya Texts, Mahāvagga

[5]Kinh Tương Ưng Bộ, Phần 48 Chương IV, Phẩm 6 căn

[6]Tương ưng bộ II, Phẩm cây, X Nhân (S, ii, 92), tr.165

[7]Sabbe sankhārā aniccā

[8]Dhammapada No. 22

[9]Dhammapada No. 279

[10]Kệ thị tịch, Vạn Hạnh Thiền sư

[11]Tương ưng bộ II, Phẩm Gia chủ, Thánh đệ tử XX, bd. HT.Thích Minh Châu, xb.1993, tr.146

[12]Tương ưng bộ III, Phẩm A-la-hán, X Rādha (S, ii, 92), tr.165

[13]Anguttara Nikāya I, part I, Colombo 1929, P.286

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/06/2015(Xem: 6694)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 7677)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 6572)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 7329)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 9128)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7680)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 7113)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7815)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6585)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 7309)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]