Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Ngã Và Niết Bàn

05/01/201118:00(Xem: 3960)
Vô Ngã Và Niết Bàn


VÔ NGÃ VÀ NIẾT-BÀN
Thích Hiển Chánh

Niết-bàn không phải là sự vật mà là một trạng thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của tâm. Cho vô ngã là niết-bàn chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật là niết-bàn, hay nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô ngã.

Theo văn học Phật giáo nguyên thủy, niết-bàn không phải là thực tại thường hằng (nicca) và cũng không phải là thực tại ngã (atta). Mà đúng ra, niết-bàn được mô tả như một trạng thái chứng đắc "siêu vượt thời gian" (akàliko) hay sự an lạc cao cấp nhất (nibbànaị paramaị sukhaị ).1 Nhưng có khuynh hướng cho rằng niết-bàn là một thực tại tuyệt đối theo nghĩa một hạnh phúc thường hằng hay một kinh nghiệm siêu nhiên. Đặc tính hoá niết-bàn bằng một hạnh phúc thường hằng sẽ vô tình thừa nhận có một tác nhân kinh nghiệm thường hằng miên viễn (a permanent and eternal experiential agent), luôn túc trực để tiếp nhận dòng kinh nghiệm đó.

Về phương diện logic, điều nầy sẽ kéo theo sự thừa nhận một tác nhân thường hằng bất biến hay một hiện hữu siêu nhiên; và nhờ vào hiện hữu siêu nhiên này mà con người có thể nhận dạng được dòng kinh nghiệm của hạnh phúc thường hằng. Nếu đây là những gì được hiểu thì phán đoán "niết-bàn là thường" sẽ trái với lời dạy nguyên thủy của đức Phật về tính phi thực thể hay vô ngã (anatta) của mọi sự vật. Ngoại diên của vô ngã không bị giới hạn trong thế giới luân hồi (saịsàra), mà còn bao gồm cả niết-bàn. Mặc dù chúng ta không thể tìm thấy các bằng chứng trực tiếp cho lối giải thích trên, nhưng chúng ta có thể đúc kết chúng từ ba tuyên ngôn nổi tiếng của đức Phật về bản chất của thế giới:

"sabbe saơ khàràaniccà,
sabbe saơ khàrà dukkhà ,
sabbe dhamma anattà"2

Có nghĩa là "tất cả các sự vật duyên khởi đều vô thường, tất cả các sự vật duyên khởi đều dẫn đến sự không thoả mãn, và tất cả các hiện tượng (dhamma) là vô ngã."

Vấn đề cần đặt ra là niết-bàn có thể được liệt vào phạm trù của mọi sự vật hiện tượng (dhamma) hay không? Nhận xét về ba câu tuyên ngôn trên của đức Phật, HT. Narada đã viết rất chính xác như sau:

Khái niệm "pháp" hay mọi sự vật hiện tượng có thể áp dụng cho các sự vật và trạng thái duyên khởi hay phi-duyên-khởi, bao gồm luôn cả niết-bàn. Để minh chứng rằng niết-bàn thoát khỏi một bản ngã thường hằng, đức Phật sử dụng thuật ngữ "pháp" trong câu tuyên ngôn thứ ba. Niết-bàn là trạng thái siêu thế tích cực và không có bản ngã trong nó.3

Điểm quan trọng cần ghi nhận ở đây là thuật ngữ "dhamma" không được đức Phật sử dụng trong hai câu tuyên ngôn đầu có thể nhằm ngụ ý rằng mặc dù niết-bàn không phải là vô thường và khổ, nhưng nó hoàn toàn không thể mang nghĩa của một bản ngã hay thực thể thường hằng. Sự an lạc tịch tĩnh của niết-bàn được mô tả là siêu việt thời gian (akàliko) không có linh hồn hay không phải là một thực thể ngã (anatta). Thế thì, những điều có thể nói về ý nghĩa của câu tuyên ngôn thứ ba là niết-bàn cũng như các hiện tượng khác (dhamma) là vô ngã (anatta).

Trong kinh điển nguyên thủy, khái niệm "pháp" (dhamma) bao gồm hai phạm trù hiện tượng, đó là các sự vật duyên khởi tương thuộc hay hữu vi (saơ khatà, hành) và các sự vật phi duyên khởi tương thuộc hay vô vi (asaơ khatà, phi hành); và niết-bàn thuộc vào loại thứ hai.4 Chúng ta có thể tìm thấy bằng chứng cho lý giải trên trong kinh Tăng Chi (Aơguttara-Nikàya). Tại đây, đức Phật tuyên bố rằng sự thiền quán về bản chất của vô ngã hay tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng sẽ giúp ta nhổ lên được gốc rễ của bản ngã, và mặt khác, chứng đạt niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại này. Đoạn kinh đó như sau: "với quán tưởng thiền, không còn một thực thể hay ngã tính tồn tại. Vị ấy sẽ chứng đạt giải thoát các thái độ "tôi là" và đạt được niết-bàn trong hiện đời."5

A-la-hán là người đã thoát khỏi ý niệm sai lầm về ngã hay các tư tưởng ngụy tạo trên ngã (magazati). Bậc giác ngộ là người đã thoát khỏi bốn cách biểu đạt dính dáng đến sự sai lầm về ngã, như, (i) tôi là niết-bàn, (ii) tôi đang ở trong niết-bàn, (iii) tôi khác với niết-bàn, và (iv) niết-bàn là của tôi.6 Điều này có nghĩa là niết-bàn không thể bị đồng hóa với khái niệm bản ngã hay một thực thể (atta //  àtman), và do đó, niết-bàn phải là vô ngã (anatta). Mối quan hệ mật thiết giữa niết-bàn và vô ngã được trình bày rõ nét trong một đoạn kinh Trung Bộ sau đây:

Ở đây, một vị A-la-hán đã diệt trừ toàn bộ các lậu hoặc của tâm, đã sống trọn vẹn đời sống thánh, đã làm hoàn tất những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã chứng đạt được mục đích, đã tiêu diệt hết các trói buộc của tái hiện hữu bằng trí tuệ . . . Vị A-la-hán biết rõ rằng niết-bàn là niết-bàn. Với tuệ tri này, vị A-la-hán không nghĩ đến niết-bàn, không nghĩ về mình trong niết-bàn hay chính niết-bàn; cũng không nghĩ niết-bàn là của tôi, vị ấy cũng không tham đắm trong niết-bàn. Nguyên do là vị A-la-hán đã tuệ tri được bản chất của nó.7

Theo đoạn kinh này, cách thức quan niệm về niết-bàn làm cho vị A-la-hán khác và vượt lên trên người phàm kẻ tục (puthujjana). Nhờ vào trí tuệ chân chánh về niết-bàn như là niết-bàn vị A-la-hán "thật" sẽ không vướng mắc mình vào khái niệm niết-bàn cũng như niết-bàn như một thành quả chứng đạt được. Bậc giác ngộ không quan niệm niết-bàn là của mình hay bản thân mình trong niết-bàn hay chính là niết-bàn. Với tuệ tri đó, bậc giác ngộ thoát khỏi mọi chấp mắc ở đời, trong đó sự chấp mắc về niết-bàn chứng đắc được là một. Điều này cũng có nghĩa là "niết-bàn là vô ngã."

Nhờ sự tuệ tri về tính không thực thể (anatta) của năm nhóm nhân tính (pagazcakkhandha) và mọi sự vật hiện tượng (dhamma) trên thế gian này (loka), bậc giác ngộ nhận chân được rằng mình không thể bị đánh đồng với năm nhóm nhân tính hay bất kỳ cái gì kể cả bản thân niết-bàn. Đây không phải do vì bậc giác ngộ không còn đối tượng của tư duy hay không thể phân biệt được bản thân mình với cái khác và thế giới xung quanh. Trong trạng thái của niết-bàn do các giác quan và nhóm nhân tính vẫn còn hoạt động, bậc giác ngộ vẫn phải còn tiếp xúc với thế giới bên ngoài, vẫn phải còn cảm giác, ý niệm và nhận thức. Điều khác biệt là năm nhóm nhân tính trong bậc giác ngộ đã được chuyển hóa toàn diện thành trí tuệ như thật, trí tuệ như là về mọi sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa bậc giác ngộ với một người phàm trong mối liên hệ với năm nhóm nhân tính (pagazca-kkhandha), bởi lẽ cả hai đều không có một thực thể ngã bất biến (anatta).

Sự khác biệt giữa người giác ngộ và người phàm là mặc dù không có một thực thể ngã bất biến, người phàm vẫn có khuynh hướng giả định về ý niệm của bản ngã hay đồng nhất hóa bản ngã với cái gọi là năm nhóm nhân tính tâm vật lý, trong khi người giác ngộ không nhìn thấy bản ngã trong năm nhóm nhân tính này. Như là kết quả của sự khác nhau về thái độ nhận thức bản chất của năm nhóm nhân tính, sự khác biệt đã xuất hiện giữa người giác ngộ và người phàm, là cách thức mà cả hai tiếp xúc và phản ứng về thế giới và với những khái niệm của tâm (dhamma). Kẻ phàm phu thường xem mình là bản ngã và mọi sự có một thực thể ngã (atta //  àtman). Sự chấp mắc từ đó đã xuất hiện dưới một trong ba hình thái đồng nhất hóa bản ngã hay ngộ nhận về bản ngã (sakkàya-diỉỉhi): "cái này là của tôi" (etaị mama), "cái này là tôi" (eso’ ham asmi) và "cái này là bản ngã của tôi" (eso me atta).8 "Tất cả đau khổ tồn tại" đều do thái độ ngộ nhận hay đánh đồng bản ngã này với năm nhóm nhân tính (pagazcakkhandha) mà người phàm thường mắc phải.

Bậc giác ngộ thì khác hẳn. Ba thái độ đồng hóa hay ngộ nhận về bản ngã đã được chuyển hóa thành ba thái độ vô ngã: "cái này không phải của tôi" (netaị mama), "cái này không phải là tôi" (neso’ham asmi) và "cái này không phải là bản ngã của tôi" (neso me atta).9 Điều cần ghi nhận là sự chứng đạt niết-bàn được hiểu là sự chấm dứt trọn vẹn ba thái độ đồng nhất bản ngã hay ngộ nhận về bản ngã, như đã trình bày bên trên. Trong niết-bàn, do đó, không còn bản ngã, không có bản ngã. Nói cách khác niết-bàn là vô ngã.

Lối giải thích này hoàn toàn phù hợp với đoạn mô tả về niết-bàn trong Cảm Hứng Ngữ 80: sự nhận chân được chân lý vô ngã hay không thực thể trong mọi vật là con đường chứng đạt niết-bàn, mặc dù chân lý này khó có thể nhận dạng ra.

Dù sao chăng nữa, phán đoán "niết-bàn là vô ngã" không bao giờ đồng nghĩa với phán đoán "vô ngã là niết-bàn." Một số nhà Phật học, do không nhận ra được sự khác nhau giữa vô ngã, bản chất của sự vật, với niết-bàn, trạng thái an lạc do quán chiếu vô ngã mà có nên đã đánh đồng vô ngã với niết-bàn, vô ngã là niết-bàn. Nghĩa là họ đã đánh đồng phương pháp tu tập để đạt được niết-bàn (vô ngã) với bản thân của niết-bàn. Mặc dù bản chất của niết-bàn là vô ngã, nhưng vô ngã không thể bị đồng hóa với bản chất của niết-bàn. Phán đoán "vô ngã là niết-bàn" thực ra chỉ là kết quả của sự sai lầm trong việc đồng hóa một đặc tính của niết-bàn với bản thân của tổng thể niết-bàn. Sai lầm này về mặt logic cũng không hơn các phán đoán vô lý "tất cả ai đầu tròn áo vuông đều là thầy tu Phật giáo," do đánh đồng một đặc tính của thầy tu Phật giáo (cạo đầu tròn và mặc áo phương bào (áo vuông)) với tổng thể con người thầy tu Phật giáo. Ngoài đầu tròn áo vuông như yêu cầu về mặt hình thức, tu sĩ Phật giáo phải hơn bao giờ hết dấn thân vào con đường thực nghiệm tâm linh, trau giồi đời sống đạo đức, tu tập thiền định và phát triển trí tuệ để diệt trừ các dòng chảy lậu hoặc của tâm. Tương tự, câu tuyên bố của đức Phật "tất cả pháp là vô ngã" (sabbe dhammaanattà) chỉ có nghĩa không có một thực tại hay thực thể ngã trong mọi sự vật hiện tượng, trong đó, niết-bàn là một. Nó hoàn toàn không có nghĩa cho rằng vô ngã là niết-bàn. Bởi lẽ trên thế gian này có vô lượng vô số sự vật (nói đúng hơn toàn thể sự vật) vốn là vô ngã nhưng không được niết-bàn, không có niết-bàn và không phải là niết-bàn. Vô ngã là thuộc tính của mọi hiện hữu và sự vật. Niết-bàn không phải là sự vật mà là một trạng thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của tâm. Cho vô ngã là niết-bàn chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật là niết-bàn, hay nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô ngã.

Nói tóm lại, niết-bàn là vô ngã. Mặc dù sự an lạc của niết-bàn do chấm dứt toàn bộ dòng chảy lậu hoặc và khối đau khổ, là siêu vượt khỏi thời gian, nhưng không vì thế mà niết-bàn được đồng hóa với thường và ngã. Kế đến, tuệ tri về bản chất vô ngã của các sự vật là một cách, một con đường giúp ta nhận chân được niết-bàn trong đời sống hiện tại. Tuy nhiên sẽ là một sai lầm nếu ta đánh đồng vô ngã với niết-bàn, mặc dù niết-bàn là vô ngã.

Chú thích:

1. S. I. 125, S. IV. 371-2; M. I. 508-9; Dhp. 202-4, Ud. 10; Thag. 35.

2. Dhp. 277-9; A. I. 286; S. III. 133.

3. Nàrada Thera, The Buddha and His Teachings. (Singapore: 1973), p. 225: Dhamma can be applied to both conditioned and unconditioned things and states. It embraces both conditioned and unconditioned things including nibbàna. In order to show that even nibbàna is free from a permanent soul the Buddha used the term dhamma in the third verse. Nibbàna is a positive supramundane state and is without a soul.

4. A. II. 34; S. IV. 359-373.

5. A. IV. 353: anattasagagaì asmim ànasamuggh àtaị p àpu?#224;ti diỉ ỉ h eva dhamme nibbànaị .

6. M. I. 4.

7. M. I. 4: Yopi so bhikkhave bhikkhu arahaị khìàsavo vusitavà katakara?#236;yo ohitabhàro anuppattasadattho parikkhì abhavasaị yojano sammappagagà  vimutto, so pi . . . nibbànaị nibbànato abhijànàti, nibbànaị nibbànato abhigagàya nibbànaị na magagaati, nibbànasmiị na magagaati, nibbànato na magagàti, nibbànaị meti na magagàti, nibbànaị nàbhinandati; taị kissa hetu: parigagàtaị tassàti vadàmi.

8. S. IV. 2ff.

9. S. IV. 2ff.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2011(Xem: 4142)
Trong thế giới này, trong vũ trụ này hoặc trong muôn ngàn vạn ức thế giới, có một con quỷ - không biết dung mạo của nó ra sao, nó bao nhiêu tuổi, nhưng quyền năng của nó thật ghê gớm. Đó là Con Quỷ Vô Thường
29/09/2011(Xem: 4067)
Chữ “nhẫn” trong chữ Hán được viết như sau: 刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍 Chữ 刃 (nhận) nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém giết Chữ 心 nghĩa “tim”, chữ tâm được dùng rất phổ biến như tâm cảnh心境, tâm địa心地 nghiên cứu về hiện tượng ý thức gọi là tâm lý học 心理學, Phật học thì thượng gọi vạn pháp duy nhất tâm, gọi tắc duy tâm 唯心
22/09/2011(Xem: 4509)
Chúng sanh tạo tác ác nghiệp, đó là cội gốc chân thật của bệnh khổ. Bởi vì Phật, Bồ Tát, A La Hán không tạo ác nghiệp, cho nên các Ngài không bệnh. Đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu Phật Bồ Tát bị bệnh thì đó là thị hiện, đó là hoằng pháp. Ví dụ như bệnh của Ngài Duy Ma Cật là hoằng pháp lợi sanh, không phải Ngài bệnh thật, Ngài không thể bị bệnh, Ngài không có lý do gì để bị bệnh.
15/09/2011(Xem: 4422)
Tự nhận rằng, là người của công việc, hay đi lại đó đây, ngay cả trong mùa an cư, do đó với riêng tôi, việc thực hiện đúng thời khóa công phu theo phương thức truyền thống là điều bất khả! Mặc dù vậy, tự trong sâu thẳm của lòng mình, mong mỏi được đọc tụng toàn bộ kinh tạng trong mùa an cư dường như là một sở nguyện đã manh nha từ lâu...
14/09/2011(Xem: 4991)
Hạnh phúc và khổ đau lưu xuất từ những hành động quá khứ của chúng ta. Để định nghĩa nghiệp (karma) trong vài chữ, người ta có thể nói: hãy làm tốt, tất cả sẽ tốt; nếu làm xấu, tất cả sẽ xấu. Karma - nghiệp - có nghĩa là "hành động". Nó hoạt động theo ba mặt: thân, lời, và ý. Nó sản sinh ra ba loại hậu quả: xấu, không xấu và trung tính, và diễn ra trong hai thời: trước tiên người ta nghĩ đến điều sắp làm, đó là hành động ý định, rồi những động lực tâm thức hiện thực thành một hành vi thân xác hay lời nói, đó là hành động cố ý.
13/09/2011(Xem: 4618)
Đức Phật tại thế, mọi người được sống hạnh phúc bên cạnh bậc đại Đạo sư minh triết tuyệt vời, cho nên không cần đặt ra vấn đề tìm hiểu về Phật. Nhưng khi Phật nhập Niết bàn, mọi người đều có chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy để truyền cho nhau tu hành. Trong lần kiết tập đầu tiên, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng như không được mọi người tán thành hoàn toàn. Thật vậy, những chứng nhân quan trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất Phú Lâu Na và 500 Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Họ đã đến hang động khác để trùng tuyên lại.
02/09/2011(Xem: 6683)
Khoa học là sự hiểu biết về thế giới hiệntượng bên ngoài và các ứng dụng của sự hiểu biết ấy. Đấy là cách định nghĩa củakhoa học ngày nay. Thế nhưng cũng có một lãnh vực hiểu biết khác, thiết lập trênnguyên tắc tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu khác, đặc biệt liên hệ đên cáchiện tượng bên trong (tức nội tâm), và được ứng dụng vàocác hiện tượng như tri thức hay tâm thức chẳng hạn... Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
30/08/2011(Xem: 5581)
Đạo Phật nguyên thủy là Đạo Phật được dạy bởi Đức Phật Gautama và giáo pháp của ngài hiện vẫn còn được lưu giữ lại trong tam tạng kinh điển hệ Pali (Nikaya). Dù rằng trong thực tế đa số người tìm đến Đạo Phật chỉ như một nhu cầu tín ngưỡng, vẫn có một số ít cá thể thực sự tìm đến với Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát. Trong trường hợp này, người tìm đến Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát rất cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa Đạo Phật “nguyên thủy” và các Đạo Phật không phải là “nguyên thủy”, giữa Chánh pháp và Phi pháp.
25/08/2011(Xem: 7403)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự Thật – Tương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
25/08/2011(Xem: 6332)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]