Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhiều niềm tin - Một chân lý

19/12/201010:53(Xem: 6257)
Nhiều niềm tin - Một chân lý
NHIỀU NIỀM TIN, MỘT CHÂN LÝ
Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển dịch Việt

nhieuniemtinmotchanlyNew York Times, May 24, 2010 New York, USA - Khi tôi là một thiếu niên ở Tây Tạng, tôi cảm thấy rằng đạo Phật của chính tôi phải là một tôn giáo tốt nhất - và những tôn giáo khác là kém hơn làm sao ấy. Bây giờ tôi thấy tôi đã ngây thơ như thế nào vậy, và nguy hiểm như thế nào mà sự cực đoan thiếu bao dung tôn giáo thể hiện ngày nay.

Mặc dù sự thiếu bao dung có thể là xa xưa như chính những tôn giáo, chúng ta vẫn thấy có những dấu hiệu mạnh mẽ về sự độc hại của nó. Ở Âu châu, có những cuộc tranh luận nghiêm trọng về việc những người mới nhập cư đeo mạng che mặt hay muốn dựng lên những tháp cầu nguyện và những chuyện bạo động chống lại những người di dân Hồi giáo. Những người vô thần cực đoan đưa ra sự lên án bao trùm những ai duy trì niềm tin tôn giáo. Ở Trung Đông, những ngọn lửa chiến tranh được thổi lên bởi thù hận của những ai trung thành những tín ngưỡng khác nhau.

Những căng thẳng như thế dường như tăng lên khi thế giới trở nên liên hệ với nhau hơn và những nền văn hóa, con người và tôn giáo trở nên liên hệ hỗ tương vào nhau hơn bao giờ hết. Áp lực này tạo nên sự thử thách hơn đối với sự kiên nhẫn bao dung của chúng ta - nó đòi hỏi chúng ta đẩy mạnh một cách hòa bình sự cùng tồn tại và thông hiểu không bị giới hạn trong những đường biên giới.

Đương nhiên, mỗi tôn giáo có một ý nghĩa riêng biệt như bộ phận cốt lõi chân giá trị của nó. Ngay cả thế, tôi tin rằng có một khả năng chân thành cho sự thông hiểu hỗ tương. Trong khi duy trì niềm tin đối với truyền thống của mỗi người, chúng ta có thể tôn trọng, ngưỡng mộ và cảm kích những truyền thống khác.

Một người đã mở mắt cho tôi là sự gặp gỡ với một tu sĩ dòng Luyện tâm (Trappist) Thomas Merton ở Ấn Độ chỉ trước khi ông đã chết rất trẻ năm 1968. Merton đã nói với tôi rằng ông có thể trung thành tuyệt đối với Ki Tô giáo, tuy thế ông đã học hỏi một cách sâu xa từ những tôn giáo khác như Phật giáo. Điều ấy cũng giống với tôi như một người Phật tử nhiệt tình học hỏi từ những tôn giáo vĩ đại khác của thế giới.

Điểm chính trong cuộc thảo luận với Merton là trọng tâm lòng bi mẫn như thế nào đối với cả Ki Tô giáo và Phật giáo. Khi đọc về Tân Ước, tôi thấy ngưỡng mộ những hành vi bác ái của chúa Giê-Su. Những phép lạ của ngài về bánh mì và cá, sự chữa trị của ngài và sự giảng dạy của ngài tất cả được thúc đẩy bởi khát vọng giải thoát khổ đau.

Tôi là một người với niềm tin vững vàng trong năng lực tiếp xúc cá nhân để vượt qua những sự khác biệt. Vì thế tôi đã từng tổ chức những cuộc đối thoại với những người với những quan điểm tôn giáo khác. Sự tập trung trên lòng bi mẫn mà Merton và tôi đã quán chiếu trong hai tôn giáo của chúng tôi gây ấn tượng cho tôi như một dòng chảy thống nhất mạnh mẽ giữa tất cả những tôn giáo quan trọng. Và những ngày này chúng ta cần làm rõ những gì kết hợp chúng ta lại.

Thí dụ lấy trường hợp Do Thái giáo. Lần đầu tiên tôi đã viếng thăm một đền thờ Do Thái ở Cochin, Ấn Độ, năm 1965, tôi đã từng gặp nhiều giáo sĩ qua nhiều năm. Tôi nhớ một cách sâu sắc vị giáo sĩ Do Thái ở Hòa Lan, người đã nói với tôi về sự tàn sát người Do Thái với một cảm xúc mãnh liệt đến nỗi cả hai chúng tôi đều rơi nước mắt. Và tôi đã từng học về tại sao Talmud[i] (1) và thánh kinh lập lại chủ đề về bi mẫn, bác ái, như trong một đoạn của Leviticus đã khuyên nhắc, “Hãy yêu mến hàng xóm của con như chính con.”

Trong nhiều cuộc gặp gỡ của tôi với những học giả Ấn Độ giáo, tôi cũng đã thấy trọng tâm bi mẫn vô ngã trong Ấn giáo - thí dụ như đã tuyên bố, trong Bhagavad Gita, mà lời ca ngợi những ai “vui mừng trong lợi ích của tất cả muôn loài.” Tôi đã rung động bởi những cung cách mà giá trị này đã được biểu lộ trong đời sống của những con người vĩ đại như Thánh Gandhi, hay ít được biết hơn như Baba Amte, người đã thành lập một khu cho người hủi không xa khu cư trú của người Tây Tạng thuộc tiểu bang Maharashtra ở Ấn Độ. Ở đó ông làm nơi nuôi dưỡng cũng như cho những người phong hủi có nơi cư trú bằng không họ sẽ bị lánh xa. Khi tôi nhận giải Nobel Hòa Bình, tôi đã có hiến tặng cho khu tập trung của ông.

Bi mẫn hay bác ái là quan trọng ngang hàng trong Hồi giáo - và sự thừa nhận đã trở nên thiết yếu trong những năm từ sự kiện 11-9, đặc biệt trong sự trả lời cho những ai dán cho Hồi giáo nhãn hiệu tín ngưỡng vũ trang. Trong dịp kỷ niệm lần đầu tiên sự kiện 11-9, tôi đã nói tại vương cung Thánh đường Quốc Gia ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ biện luận rằng chúng ta không mù quáng nghe theo sự tuyên truyền của ai đấy trong những phương tiện truyền thông và để những hành vi bạo động của một vài cá nhân định danh cho toàn thể một tôn giáo.

Hãy để tôi nói với quý vị về đạo Hồi mà tôi biết. Tây Tạng đã từng có một cộng đồng Hồi giáo khoảng 400 năm, mặc dù sự tiếp xúc phong phú nhất của tôi với Hồi giáo là ở Ấn Độ, nơi có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ hai trên thế giới. Một giáo sĩ Hồi giáo ở Ladakh, một lần đã nói với tôi rằng một người Hồi giáo chân chính nên yêu mến và tôn trọng tất cả những tạo vật của thánh Alla. Trong sự hiểu biết của tôi, Hồi giáo trân trọng bi mẫn-bác ái thiêng liêng như cốt tủy nguyên lý tâm linh, phản ánh trên ngay chính danh xưng của Thượng đế, “Bác ái và Nhân từ,” mà điều ấy hầu như xuất hiện khi bắt đầu mỗi chương của kinh Koran.

Truy tìm nền tảng chung trong những nền tín ngưỡng có thể giúp chúng ta vượt lên những sự chia cách không cần thiết tại một thời điểm khi mà hành động kết hợp là thiết yếu hơn bao giờ hết. Như một chủng loại, chúng ta phải nắm lấy tính chất duy nhất của nhân loại, như cùng là những con người, khi chúng ta đối diện với những vấn đề của địa cầu như những khủng hoảng về nạn dịch, kinh tế và thảm họa sinh thái. Ở mức độ ấy, sự đáp ứng của chúng ta phải là một hành động duy nhất.

Hòa hiệp trong những tôn giáo quan trọng đã trở thành một thành tố chủ yếu của sự cùng tồn tại hòa bình trong thế giới chúng ta. Từ nhận thức này, sự thông hiểu hỗ tương trong những truyền thống này không chỉ đơn thuần là trách nhiệm của những người tin tưởng tôn giáo - nó quan hệ cho lợi ích của toàn thể nhân loại.

1. Sưu tập những bài viết của những giáo sĩ Do Thái bao gồm tập Mishnah và Gemara, cấu thành căn bản tín ngưỡng của Do Thái Chính Thống giáo.

2. Đức Đạt lai Lạt ma thứ mười bốn, Tenzin Gyatso là tác giả của một tác phẩm gần đây nhất, về “Đối với mối quan hệ cùng tính chất của những tôn giáo: Làm thế nào những tôn giáo của thế giới có thể đến với nhau.”

Nguyên tác tiếng Anh: “Many Faiths, One Truth” by TENZIN GYATSO, New York Times, May 24, 2010

(Trích: Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay Số 04)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2011(Xem: 7099)
Kinh Bát-nhã lấy niết-bàn siêu việt danh, tướng, phân biệt, cũng chính là sự tự chứng của Thích-ca Như lai, làm lập trường căn bản. Dựa theo đây để quán tất cả pháp, hữu vi và vô vi không phải là hai, sanh tử và niết-bàn không phải là hai, tất cả đều không phải là hai, không phải là khác, ‘dứt tuyệt mọi hí luận’. Dùng điều này để giáo hóa dẫn dắt, thì không bằng như sự giáo hóa của đức Thích tôn, không bắt đầu từ vô thường, khổ, mà trực tiếp từ không, vô tướng, vô nguyện, v.v., nhập môn, đây là Phật pháp Đại thừa – đặc sắc của kinh Bát-nhã.
02/04/2011(Xem: 5398)
Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lý trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà không dựa vào Thần Linh.
29/03/2011(Xem: 8536)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta? Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến giải pháp của ngài. Với nhiều tín đồ, chấp nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh khác nhau nhưng hiệu quả.
01/03/2011(Xem: 4115)
Có một số Phật tử cho rằng khi con người đạt tới giải thoát là lúc họ trở vể với bản thể chân tâm tuyệt đối, hoà đồng vào bản thể của vũ trụ vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu. Nhận định trên đã được dẫn xuất từ nguồn tư tưởng Bà La Môn và từ những nhận xét sai lầm về Phật giáo. Cho nên, để có một cái nhìn rõ ràng hơn về đạo giải thoát của đức Phật, chúng tôi viết bài tiểu luận này nhằm nêu lên sự khác biệt giữa quan niệm giải thoát của Phật giáo và của Bà La Môn giáo. Bài viết được dựa phần lớn vào những tư liệu hiện có, vào kinh điển của Phật giáo và Bà La Môn giáo đang lưu truyền.
21/02/2011(Xem: 10299)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
19/02/2011(Xem: 15145)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
11/02/2011(Xem: 6592)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khí và chịu đựng đầy hoan hỉ...
11/02/2011(Xem: 8048)
Hiện nay, thời khóa mỗi ngày của tôi nhất định phải có là: sáng sớm thức dậy tụng phẩm Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang, bài kệ phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A Di Đà” rồi hoàn kinh niệm Phật. Nếu tụng ra tiếng thì hơn 2 tiếng đồng hồ, nếu tụng thầm thì trên dưới một tiếng rưỡi. Năm nay tôi đã 94 tuổi nên chỉ thực hiện thời khóa bằng cách tụng thầm mà thôi, chứ tụng ra tiếng thì không nỗi nữa rồi. Sở dĩ tôi nói kỹ như vậy để chúng ta biết rõ cách tu tập của mình là phải có sự liên tục hằng ngày. Không nên lúc có, lúc không. Tụng kinh niệm Phật ngoài mục đích chính yếu là vãng sanh Cực Lạc ra, còn có tác dụng hàng phục những phiền não nghiệp chướng, khiến cho những thiện căn công đức được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy, tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần trên con đường Hiền Thánh giải thoát.
11/02/2011(Xem: 3824)
Bởi ai và như thế nào các vũ khí của địa ngục được tạo ra? Ai đã làm những nền địa ngục nóng rực? Và từ nơi đâu những ngọn lửa của địa ngục? Sakyamuni dạy ‘ Tất cả chúng đều sinh ra từ tâm bị vọng tưởng’ --- Tịch Thiên. Nhập bồ tát hạnh. (Santideva. Bodhicaryavatara)
10/02/2011(Xem: 3994)
Trong khi đánh máy lại quyển sách này Trí Đạt có uớc mong là chỉ cần thấy một người cảm nhận cái hay của nó mà phát tâm hành thiền : Đó là hạnh phúc lớn lao của Trí Đạt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567