Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Đức Của Kinh Pháp Hoa

08/04/201313:11(Xem: 15163)
Công Đức Của Kinh Pháp Hoa

phap_hoa

Những bản kinh ngắn dịch từ Hán Tạng

Công Đức Của Kinh Pháp Hoa

HT Thích Trí Quảng

Nguồn: HT Thích Trí Quảng

Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
Lục vạn dư ngôn thất trục trang.
Vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng.
Hầu trung cam lộ
quyên quyên nhuận.
Khẩu nội đề hồ trích trích lương.
Bạch ngọc xỉ biên lưu xá lợi
Hồng liên thiệt thượng phóng
hào quang
Giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc
Bất tu Diệu Pháp lưỡng tam hàng.

HT. Thích Trí Tịnh dịch là:
Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn
Chứa đựng vô biên nghĩa
nhiệm mầu
Trong cổ nước cam lộ rịn nhuần
Trong miệng nước đề hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu Pháp
vài ba hàng.

Hoặc bài tán thán công đức kinh Pháp Hoa sau đây tóm gọn toàn bộ yếu chỉ của kinh mà tôi rất tâm đắc và thường đọc tụng, suy tư, thực hành trong cuộc sống, xin chia sẻ với quý vị.
Pháp Hoa kinh giả, nãi giác hoàng chi yếu chỉ, thật Bồ tát chi hạnh môn.
Phương tiện môn trung, khai thị ngộ nhập, cơ duyên nan tận tán dương.
Khuyến phát phẩm nội, thị giáo lợi hỷ, công đức bất khả tư nghì.
Cùng tử nhiệm Đại thừa chi vinh hoa, bình sanh đắc vị tằng hữu chi công đức.
Hoạch kế châu chi bạo phú, khánh châm giới chi tương đầu.
Vãng hoàn tam giới, trường ngự bạch ngưu chi xa.
Xuất nhập cửu cư, chung cứ thanh liên chi tòa.
Thanh lương hỏa trạch, thê tức hóa thành.
Tạc tỉnh phùng nguyên, tiễn tế lao sanh chi muộn.
Chỉ y xuất bảo, tần tư túy khách chi cơ.
Kiến văn tùy hỷ, thượng kiết Phật quả chi nhân.
Tín thọ phụng hành, vĩnh xứ chơn thường chi lạc.
Kinh công đức lực. Tán mạc năng cùng.

Đọc hai bài tán thán công đức của kinh Pháp Hoa nêu trên với tất cả tấm lòng mới tìm thấy được những tinh ba vô cùng quan trọng hàm chứa trong bộ kinh này. Những pháp Phật dạy thường được chia thành hai là chân thật môn và phương tiện môn. Chân thật môn là sở đắc, sở ngộ, sở tu của Đức Phật. Phương tiện môn thì Phật tùy chỗ, tùy lúc, tùy người mà giảng dạy những pháp khác nhau. Đa số chúng ta tu hành đều đi vào cửa phương tiện, nghĩa là mỗi người tiếp thu giáo lý thích hợp với trình độ, nghiệp lực của riêng mình, nên mỗi người gặt hái được những kết quả khác nhau, không ai giống nhau. Cái gì khác phải hiểu là phương tiện. Còn chân thật pháp thì Phật không thể nói được, vì không có đối tượng. Điều này dễ nhận biết trong cuộc sống, những điều hay phải có người hiểu chúng ta mới chia sẻ được. Điển hình như câu chuyện Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn thân. Bá Nha có khả năng khảy đàn tuyệt vời mà chỉ có Tử Kỳ cảm nhận được cái hay đó. Vì thế, khi Tử Kỳ chết, Bá Nha phải quẳng đàn vì không còn người nghe được. Người ta thường nói “Đàn khảy tai trâu” để diễn tả việc không thể chia sẻ những điều hay với người không có khả năng tiếp nhận.
Pháp chân thật của Phật cũng không ai nghe nhận được. Thật vậy, nhớ lại hội Hoa Nghiêm khi Đức Phật vừa thành đạo, Ngài liền có ý nhập Niết bàn; vì pháp của Ngài chứng đắc vượt quá năng lực của con người phàm phu, không thể dùng lời nói chỉ dạy cho họ hiểu được. Bấy giờ, mười phương chư Phật khuyên Ngài nên sử dụng phương tiện để cứu độ chúng sinh. Với sự nhắc nhở của chư Phật mười phương, Đức Phật Thích Ca liền xuất định, đến Lộc Uyển thuyết pháp Tứ Thánh đế độ năm anh em Kiều Trần Như và từ đó Ngài lập giáo khai tông. Trên bước đường tu hành, lịch sử cũng ghi nhận rằng các vị Thánh La hán đắc đạo cũng thường nhập diệt, vì việc truyền trao trí tuệ vô lậu cho chúng sinh rất khó.
Kinh Pháp Hoa được Đức Phật ví như hoa Linh thoại đúng thời tiết mới nở, nghĩa là phải có đúng đối tượng tiếp nhận được, Phật mới có thể giảng dạy. Theo Trí Giả đại sư, kinh Pháp Hoa được Phật chỉ dạy vào 8 năm cuối cùng trên lộ trình thuyết pháp độ sinh. Vì là bộ kinh tổng kết cả một cuộc đời giáo hóa của Phật, nên gọi là yếu chỉ. Tụng Pháp Hoa, chúng ta phải nhận ra điều vô cùng quan trọng này mà đem tất cả sinh mạng mình để thể nghiệm pháp Phật dạy trong kinh, mới có thể thâm nhập tri kiến Phật, chớ không thể diễn tả bằng lời nói suông được.
Vị Tổ sư tu chứng yếu chỉ Phật dạy trong kinh Pháp Hoa đã khẳng định “Pháp Hoa kinh giả. Nãi giác hoàng chi yếu chỉ. Thật Bồ tát chi hạnh môn”. Nghĩa là Pháp Hoa chính là yếu chỉ của Phật, là hạnh của Bồ tát hạnh. Đức Phật cũng dạy rằng kinh Pháp Hoa còn có tên là Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm kinh.
Chúng ta vào đạo, nương theo tam thừa giáo: Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát. Đi vào con đường Thanh văn và Duyên giác chưa thâm nhập Pháp Hoa. Chỉ vào con đường Bồ tát, tức có tâm lượng rộng lớn và có khả năng cứu giúp muôn loài, mới thật tu Pháp Hoa. Tâm ích kỷ và đầy trần lao nghiệp chướng không thể hành trì Pháp Hoa, vì hành trì pháp này sẽ tạo phản ứng ngược lại với cuộc sống mình. Thật vậy, kinh ví như thuốc, dĩ nhiên uống thuốc vào sẽ có phản ứng, đó là phản ứng của nghiệp mà người ta thường gọi là bị nghiệp khảo. Trái lại, người có công đức, tâm ngay thật, diệu hòa thọ trì kinh Pháp Hoa sẽ tạo được công đức liền. Chính vì lý do đó, người ta thường cho rằng kinh Pháp Hoa để dành cho các vị cao tăng tu, vì các ngài đã sạch nghiệp và có đủ công đức thì tu Pháp Hoa, công đức dễ phát triển. Nói đơn giản, đã có công đức và tâm sạch ví như đất sạch, hạt giống Bồ đề gieo xuống là lên cây ngay. Còn mảnh đất tâm của chúng ta dơ bẩn, gieo giống Bồ đề, làm sao lên được. Các bậc thượng căn, thượng trí thuộc căn tánh Đại thừa và có sẵn hạt giống vô lậu trí, gặp kinh Pháp Hoa tu hành, trở thành bậc chân sư tỏa sáng đạo lực, cảm hóa được nhiều người . Vì thế, Pháp Hoa là pháp môn hành trì của Bồ tát, là yếu chỉ của Phật, tất yếu phải có đối tượng tương ưng, Phật mới truyền trao được.
“Phương tiện môn trung. Khai thị ngộ nhập, cơ duyên nan tận tán dương”. Vì đối với những người không thể thâm nhập pháp chân thật, nên Phật khai mở phương tiện, nhằm khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Chưa có hiểu biết theo Phật, chỉ dùng trí thế gian là phiền não trí, tức khôn dại của con người để hơn thua nhau, chẳng ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy phiền muộn, khổ đau, không phải là người trí trong đạo Phật.
Theo Phật, người trí thấy rõ nhân duyên, nhân quả, cho nên không thắc mắc, không tranh cãi, nhưng suy nghĩ xem nên nói hay không nên nói, nói thì người hiểu đúng hay hiểu sai, nói có lợi hay không có lợi. Hòa thượng Trí Tịnh thường nhắc nhở rằng tụng Pháp Hoa, phải cẩn thận, thấy đúng, nhưng phải thấy thêm rằng nói có lợi cho mình và cho nhiều người mới nói; không có lợi mà sinh ra phiền não thì không nói, dù đó là việc đúng. Nói thật mất lòng thì không nói, vì làm mất lòng người, sau này gặp lại, khó giáo hóa. Đợi đúng lúc mới nói, người ta dễ cảm mến. Sau 40 năm giáo hóa để đại chúng đủ trình độ hiểu Pháp Hoa, Phật mới nói kinh này. Đức Phật đã xác nhận rằng những điều mà trước kia Ngài chưa nói vì Tăng chúng suy nghĩ khác, không thể tiếp cận chân lý, nếu nói sẽ không có kết quả tốt đẹp. Đến đúng lúc nghĩa là mọi người đã có căn tánh thuần thục, thì Phật nói Pháp Hoa. Áp dụng ý này của Phật dạy trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy rõ có những việc đúng nhưng phải đợi đến thời kỳ đất nước chúng ta đổi mới, mới nói được. Hoặc 30 năm trước, tập hợp an cư thuyết giảng là rắc rối lớn, nhưng ngày nay, mỗi năm tổ chức cả chục trường hạ là việc bình thường. Nhận rõ đúng thời có thể truyền bá thuyết giảng, nhưng không làm, là sai lầm lớn. Còn chưa đến lúc mà nói là tự chuốc họa cho mình và người.
Trí của Phật biết rõ đúng lúc mới nói và kinh cũng dạy chúng ta phải nói đúng người. Kinh Pháp Hoa là Bồ tát pháp, nên chỉ nói cho Bồ tát. Đối với người có năng lực, tâm trí và hành động thuộc hàng Nhị thừa thì việc nỗ lực tu tâm dưỡng tánh của chính bản thân là chính yếu, Phật chưa nói Pháp Hoa cho họ được. Họ theo Phật, ngày ngày khất thực và lo tịnh hóa thân tâm; nhưng khi tất cả Tỳ kheo đã trải qua quá trình tu hành theo Phật, phiền não đã đoạn tận, hoặc nghiệp hết sạch, tâm hoàn toàn giải thoát, tự tại, đắc Thánh quả, Phật mới nói Pháp Hoa. Lúc đó, cũng có 5.000 người rời hội trường ra đi. Phật nói họ đi cũng tốt, vì họ là hàng tăng thượng mạn, không thể tiếp nhận chân lý. Suy nghĩ ý này, chúng ta tự biết khi chưa chấp nhận được pháp Bồ tát, e rằng là tăng thượng mạn, tức chưa chứng Thánh quả mà tự cho là Thánh. Vì kinh Pháp Hoa dạy rằng nếu thật sự là A la hán, thì không thể không tin pháp Bồ tát. Kinh Pháp Hoa là pháp nói cho các Bồ tát và các vị A la hán đã sạch trần lao nghiệp chướng phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát đạo, cứu nhân độ thế, phải nương theo pháp này.
Pháp Bồ tát Phật dạy đứng đầu là bố thí, bố thí pháp, bố thí tài vật và xả thân (vô úy thí) là ba việc khó làm. Chúng ta có dám xả thân mạng cứu giúp chúng sinh hay không. Nếu chưa có khả năng làm như vậy, tự biết mình thuộc hàng Nhị thừa. Hòa thượng Quảng Đức là Bồ tát, vì ngài đã xả thân một cách tự tại, làm đuốc soi sáng, phá trừ thế lực vô minh, làm lợi lạc cho nhiều người. Hiện tại, quý vị nào lo cho đại chúng, như gánh vác công việc của Hóa chủ, phải phát tâm Đại thừa, hành Bồ tát đạo, lo cơm gạo, thuốc men cho chúng tu học. Người đắc quả A la hán muốn cứu chúng sinh, Phật mới dạy pháp Bồ tát cho họ, được diễn tả là “Thật Bồ tát chi hạnh môn”.
“Khai thị ngộ nhập”. Phật dùng vô số phương tiện để khai tri kiến cho mọi người. Đầu tiên Phật khai điều gì? Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai thọ lượng thứ 16, Đức Phật nói rằng: “Từ Ta thành Phật đến nay trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp …”. Không phải Ngài mới thành Phật trong hiện đời, nhưng vì muốn khai tri kiến Phật cho chúng sinh, Ngài phải thị hiện thân người, sinh vào cung vua Tịnh Phạn, rồi xuất gia, đến cội bồ đề gần thành Già Da mà thành Phật và giáo hóa chúng sinh. “Khai” là mở đầu nói như vậy, Phật cho biết Ngài là Phật đã thành và chúng ta cũng sẽ thành Phật.
Đức Phật đã thực hiện tốt đẹp tất cả những gì mà Ngài giảng nói, không phải nói suông. Phật nói Ngài tu thành Phật thì Ngài đã đạt quả vị Phật, đó là “thị”, tức chỉ bày.
“Ngộ” là nhận ra con người thật của mình, biết được tiền kiếp của mình và của người xung quanh. Trên bước đường tu, tôi thường suy nghĩ đời trước mình là ai, ở đâu, làm gì. Tiếp cận với người, tôi cũng nghĩ về đời trước của họ và mối quan hệ của tôi với họ như thế nào. Thực tế, gặp vị cao tăng, sinh tâm kính trọng, tôi có cảm giác, chứ chưa phải là ngộ, tức hiểu lờ mờ, nhận ra vị này hình như đời trước đã là thầy mình và đời này cũng là thầy mình, nên nghe những gì thầy dạy hôm nay cảm giác như đã từng nghe rồi, nên hiểu và nhớ dễ dàng. Đến khi học Duy thức với Hòa thượng Thiện Hoa, nghe xong là thuộc liền, trong khi các huynh đệ tôi coi môn học này khó và tôi cũng cảm nhận dường như đời trước đã học với vị thầy này. Sang Nhật gặp các vị cao tăng khác, cũng có cảm giác như đã nghe, đã học, từ đó, tôi học đốt giai đoạn, tiến rất nhanh. Và tôi cũng cảm giác hình như đời trước đã tu hành, làm Sa môn, nên tái sinh hiện đời thích hạnh Sa môn, cảm thấy thầy bạn rất thân thương, đó là quyến thuộc tâm, quyến thuộc Bồ đề, thường gọi là Linh Sơn cốt nhục. Cùng tu chung, chúng ta có quyến thuộc Bồ đề là những người quyết tâm tu theo giáo pháp Phật, nhưng không phải quyến thuộc Bồ đề, chúng ta thấy họ rất xa lạ, biết được họ là ai và cũng không thắc mắc. Từng bước tu hành, trí huệ phát sinh, chúng ta thấy biết được sự thật, biết được mình và người, biết được ít nhất một đời trước và biết quan hệ giữa ta và người thiện ác ra sao. Và cuối cùng là nhập được tri kiến Phật, tức thâm nhập Phật huệ.
Một đời giáo hóa, Phật độ được tất cả những người hữu duyên, vì với Phật huệ, Ngài thấy biết căn tánh của họ và tùy theo đó mà khai thị cho họ thành Thánh. Vì người cầu Thanh văn, Phật nói pháp Tứ Thánh đế; vì người cầu Duyên giác, Ngài nói pháp Thập nhị nhân duyên; vì người cầu Bồ tát, Phật nói sáu pháp Ba la mật. Ai cầu mong điều gì, Phật dạy điều đó, nghĩa là vì người mà nói, thì đó là pháp phương tiện, không phải yếu chỉ. Đến hội Pháp Hoa, Phật cho biết Ngài bỏ phương tiện, nói pháp chân thật, vì sắp Niết bàn, phải nói sự thật.
“Khuyến phát phẩm nội, thị giáo lợi hỷ, công đức bất khả tư nghì” nhằm chỉ phẩm 28 kết thúc kinh Pháp Hoa là yếu chỉ nói về bốn điều để có được kinh này và ba điều được giữ gìn; đó chính là lợi ích của kinh Pháp Hoa. Bốn điều thành tựu của kinh Pháp Hoa gồm có, một là người muốn tu Pháp Hoa phải có căn lành. Hai là được chư Phật hộ niệm mới trì Pháp Hoa được. Không có Phật hộ niệm thì tà ma sẽ phá hại. Vì vậy, trì kinh Pháp Hoa được an ổn là biết có Phật hộ niệm, Phật bổ xứ. Nhưng nếu không có căn lành, Phật không hộ niệm. Vì vậy, muốn tu Pháp phải trồng căn lành ở các Đức Phật. Căn lành cũng chính là đạo đức theo kinh Vô Lượng Nghĩa mở đầu Pháp Hoa. Người có đạo đức trì Pháp Hoa mới có kết quả. Đức Phật khẳng định đối với hành giả Pháp Hoa, nếu người ác đến hại thì Phật khiến Thiên long Bát bộ giữ gìn; nếu ở chỗ vắng vẻ, Phật khiến trời người cúng dường. Như vậy, người trì kinh Pháp Hoa có người bảo vệ khi bị hại; nói khác, là có Phật hộ niệm, có căn lành. Nhưng tu mà bị nhiều việc xấu ác tác hại được, phải tự biết mình không có căn lành thì cần đi vào cửa phương tiện bằng cách trồng căn lành, tức làm quyến thuộc Bồ đề, nương theo Bồ tát để làm, không thể tự làm được một mình. Thứ ba là phải sống trong chánh định, tức tâm luôn bình ổn, đừng để mọi việc tác động, lìa bốn tướng buồn, giận, lo, sợ. Được như vậy, tâm chúng ta mới yên tĩnh, mới vào thiền định, mới giữ được sức gia trì của Phật, mới nuôi lớn căn lành và tiến tu đạo hạnh được. Thứ tư là phải quyết tâm cứu độ chúng sinh. Đối với những người giúp được, chúng ta không sợ gian lao, không từ khó nhọc, đem tâm lực và sức lực phục vụ. Có bốn điều này thì tu Pháp Hoa được và có công đức bất khả tư nghì.
“Cùng tử nhiệm Đại thừa chi vinh hoa, bình sanh đắc vị tằng hữu chi công đức” nghĩa là nhắc đến phẩm Tín giải thứ tư trong kinh Pháp Hoa. Bốn vị đệ tử của Phật là Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề và Mục Kiền Liên ví các ngài là cùng tử theo Phật tu hành không mong gì khác ngoài giải thoát. Nhưng nay các ngài chẳng những được giải thoát mà còn được nhiều công đức lớn lao chưa từng dám ước mơ, gọi là “nhiệm Đại thừa chi vinh hoa”.
“Hoạch kế châu chi bạo phú” là nói phẩm Pháp sư thứ mười, quốc vương lấy viên châu trên búi tóc ban cho, trở thành người giàu có. Riêng tôi, xuất thân từ nhà nông, thuở nhỏ chăn trâu, không phải là con nhà quý phái. Nhưng đi tu, chỉ mong được ở yên trong chùa và được giải thoát. Vậy mà Phật đã cho trí thông minh, nhớ dai, hiểu rộng, được làm giảng sư, làm một số Phật sự. Những việc này chưa từng ước mơ.
“Khánh châm giới chi tương đầu” là phẩm thứ sáu, Phú Lâu Na ví mình như người nghèo gặp bạn cho viên châu may dính vào áo, nhưng vì say nên không biết, phải lang thang đi làm thuê rất khổ cực. May gặp lại bạn cũ bảo rằng tại sao phải sống khổ sở, nên lấy viên châu đổi thành của cải mà tiêu dùng cho sướng.
Câu chuyện này Đức Phật muốn chỉ dạy rằng tất cả chúng ta đều có tri kiến Phật, nghĩa là đều có thể làm Phật, tự tại giải thoát khỏi sinh tử; nhưng tại sao lại phải chấp nhận thân phận hèn mọn của chúng sinh bị khổ đau trôi lăn trong sinh tử, mà không sử dụng tri kiến Phật.
“Vãng hoàn tam giới, trường ngự bạch ngưu chi xa” nói đến phẩm Thí dụ thứ ba. Các con của trưởng giả, người cầu xe dê, người cầu xe nai… nhưng đến bãi đất trống, ông trưởng giả đều cho họ một chiếc xe đại bạch ngưu xa đi vào đi ra tam giới tự tại vô ngại. Trước chưa được đại bạch ngưu xa, họ bị nhà lửa tam giới đốt chết; nhưng tu Pháp Hoa, ngồi trên đại bạch ngưu xa, ra vào tam giới hoàn toàn tự tại. Điển hình như Bồ tát Quan Âm sang Tây phương Tịnh độ làm trợ thủ cho Phật Di Đà, lại trở về Ta bà làm lợi ích chúng sinh mà tâm vẫn hằng thanh tịnh, không hề bị ô nhiễm.
“Xuất nhập cửu cư, chung cứ thanh liên chi tòa” nhằm chỉ uy lực vô song của Địa Tạng Bồ tát. Ngài hành Bồ tát đạo hoàn toàn tự tại, lên chín tầng trời và xuống tận địa ngục A Tỳ một cách dễ dàng, chỉ cần ngồi trên tòa sen xanh và dằn cây tích trượng xuống là cửa địa ngục mở ra.
“Thanh lương hỏa trạch, thê tức hóa thành” nghĩa là hành giả Pháp Hoa ở trong nhà lửa tam giới vẫn thấy mát mẻ. Khi nào mệt mỏi thì có hóa thành của Như Lai tạo cho để an trụ. Nói cách khác, nương theo giáo pháp Tam thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát mà chúng ta tu hành được yên ổn ở cõi Ta bà ngũ trược.
“Tạc tỉnh phùng nguyên, tiễn tế lao sanh chi muộn” nhắc đến phẩm thứ mười lấy ví dụ ở trên cao nguyên đào giếng, gặp được nước vọt lên thì sung sướng vô cùng. Tu đúng pháp Phật, có được những điều chưa từng dám ước mơ.
“Chỉ y xuất bảo, tần tư túy khách chi cơ” là người tỉnh cơn say, nhận ra được hạt châu trong áo và sử dụng nó, sống cuộc đời giàu sang hạnh phúc. Trong thân tứ đại của chúng ta cũng có hạt châu là tri kiến Phật, chỉ cần biết khai thác thì sẽ được tự tại trong sinh tử.
“Kiến văn tùy hỷ, thượng kiết Phật quả chi nhân. Tín thọ phụng hành, vĩnh xứ chơn thường chi lạc. Kinh công đức lực. Tán mạc năng cùng”. Nếu thấy nghe được kinh Pháp Hoa và chúng ta phát tâm tùy hỷ thì sẽ kết thành hạt nhân của quả vị Phật sau này. Nếu có niềm tin và làm theo lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa thì ở bất cứ nơi nào, từ địa ngục A tỳ cho đến trời Sắc cứu cánh cũng được an lạc. Công đức của kinh Pháp Hoa không thể nào ca ngợi cho hết được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 5911)
Thiền tập Phật Giáo là cần thiết trong trường học do những lợi ích thiết thực của nó. Nhưng có những gì hơn thế ấy. Khi tín ngưỡng trong trường học từ mọi truyền thống tiếp tục chiếm những đề mục nổi bật hàng đầu, thì quan điểm của một nền giáo dục đặc biệt của Đạo Phật không phải tranh cải nhiều. Những sự thực tập căn bản của trường học gợi hứng từ Đạo Phật, trái lại đang bắt đầu đạt được sự thúc đầy.
29/12/2010(Xem: 5247)
Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán”. Bằng trí tuệ siêu việt của bậc giác ngộ đã khai thị cho chúng ta thấy được muôn sự muôn vật tồn tại trên thế gian này đều là mộng ảo hư huyễn giả tạm, như bọt sóng, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp, tạm bợ vô thường không tồn tại lâu dài, vật lớn như sơn hà đại địa cho đến thân mạng cũng đều như vậy, tất cả đều phải tuân theo một qui luật chung là Thành Trụ Hoại Không hay Sanh Trụ Dị Diệt. Đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, không đáng để tham luyến khổ đau.
19/12/2010(Xem: 7094)
Khi tôi là một thiếu niên ở Tây Tạng, tôi cảm thấy rằng đạo Phật của chính tôi phải là một tôn giáo tốt nhất - và những tôn giáo khác là kém hơn làm sao ấy. Bây giờ tôi thấy tôi đã ngây thơ như thế nào vậy, và nguy hiểm như thế nào mà sự cực đoan thiếu bao dung tôn giáo thể hiện ngày nay.
17/12/2010(Xem: 5249)
Dù thế nào chăng nữa thì mọi cuộc đời đều quý báu. Trước hết, quý báu có nghĩa là gì? Trong Phạn ngữ, từ ratna để chỉ cho sự quý báu. Trong tiếng Tây Tạng, ratna đôi khi được dịch là konchog và có lúc được dịch là rinpoche. Đôi khi từ này được dịch ngắn gọn là rinchen. Những lúc khác được dịch là norbu, có nghĩa là viên ngọc quý. Vì thế, tiếng Tây Tạng thật phong phú khi diễn tả những thuật ngữ tâm linh khác nhau.
15/12/2010(Xem: 4597)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiện và đạt được giác ngộ. Bởi phật tính là bản chất tinh khiết và giác ngộ thực chất của chúng ta mà chúng ta có thể hoàn thiện và vượt qua bất cứ ô nhiễm nào. Đức Phật đã chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của Ngài về điều này, không chỉ công nhận thực tế phật tính tồn tại trong tất cả chúng sinh, mà còn dẫn dắt chúng ta để đánh thức khả năng vô hạn và bẩm sinh này cho tới khi chúng ta đạt được sự tỉnh giác trọn vẹn về phật tính của chính mình, và tự chúng ta trở thành những vị phật giác ngộ.
10/12/2010(Xem: 13312)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
08/12/2010(Xem: 4942)
Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ tát đạo Ẩ về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm linh.
05/12/2010(Xem: 9161)
Lịch sử nhân loại nhìn từ một khía cạnh nào đó chính là lịch sử của tư duy con người. Các biến cố lịch sử, chiến tranh, sự tiến bộ về mọi mặt, các thảm kịch..., tất cả phản ảnh bản chất hoặc tiêu cực hoặc tích cực của tư duy con người. Các danh nhân, các nhà cách mạng, các tư tưởng gia..., đều là các vĩ nhân đại diện cho những tư duy tích cực. Thảm kịch, bạo ngược, chiến tranh tàn khốc... phát sinh từ những tư duy tiêu cực.
04/12/2010(Xem: 3933)
Mỗi sáng thức dậy với tâm tỉnh giác, ta thấy mình vẫn còn sống và hân hoan chào đón một ngày mới hạnh phúc, vui tươi bằng sự nhiệm mầu trong từng phút giây. Một ngày mới bắt đầu giúp ta có thời gian rèn luyện nhân cách, sống cố gắng làm một việc gì, để làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, dấn thân đóng góp lợi ích cho xã hội.
03/12/2010(Xem: 5142)
Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết là Om Mani Padme Hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch thoát khỏi sự tham luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum – thần chú sáu-âm này là tinh tuý của toàn bộ Giáo Pháp – thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó không hoàn toàn đơn giản. Ở đây tôi sẽ chỉ đề cập tới cốt lõi của những lợi lạc vô biên của nó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]