Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 6: Bốn điều khiến cho Bồ Tát đạt được đại trí huệ.

15/05/201318:42(Xem: 8289)
Chương 6: Bốn điều khiến cho Bồ Tát đạt được đại trí huệ.

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bậc Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương

Chương 6: Bốn Điều Khiến Cho Bồ Tát Đạt Được Đại Trí Huệ

Phạm Công Thiện

Nguồn: Phạm Công Thiện


"Hỡi này, Ca Diếp, có bốn điều khiến cho một bậc Bồ Tát đạt được Đại Trí Huệ. Bốn điều ấy là gì?

1. Luôn luôn tôn kính Phật Pháp và tôn thờ những vị Pháp sư;

2. Thuyết giảng khắp nơi bất cứ pháp môn nào của Phật Pháp mà mình đã học được, thuyết giảng rộng rãi với cái lòng trong sạch, không dơ bẩn vì danh thơm tiếng tốt hoặc vì lợi lộc tiền tài;

3. Phải biết rằng trí huệ phát khởi từ sự siêng học Phật Pháp càng nhiều càng tốt, và siêng năng học Phật Pháp với sự cố gắng nỗ lực khẩn cấp liên tục giống như giải cứu cái đầu mình khỏi bị lửa cháy sém;

4. Phải tụng đọc những kinh Phật mà mình đã học được, và thực hành những điều mình đã học một cách vui sướng bất tận mà không bị vướng kẹt chằng chịt bởi ngôn từ, ngôn thuyết".

"Tôn trọng Phật Pháp" cũng có nghĩa đồng thời là "cung kính những bậc Thầy giảng dạy Phật Pháp". Có người thích nói rằng: "Tôi chỉ nghe Pháp, chứ không theo Sư" lời nói này chỉ nói lên tính ngạo mạn của người đời và chỉ làm phương hại đến lòng cầu đạo của bản thân thôi. Biết nhìn tất cả Pháp sư với đôi mắt trong sạch, với tâm thanh tịnh, là đã nhập đạo rồi. Đại Trí Huệ của Bồ Tát bắt đầu phát khởi từ tất cả tấm lòng sùng kính thiết tha trọn vẹn đối với Tam Bảo, đối với Phật, Pháp và Tăng. Mỗi một vị tăng vô danh và khiêm tốn nhất đều là Pháp sư của mình, nếu mình nhìn thấy được sự liên tục thiêng liêng của truyền thống đạo pháp từ trên 2.500 năm trôi qua sau biết bao nhiêu đảo điên dâu bể bi đát của lịch sử loài người.

Điều thứ hai để được Đại Trí Huệ của Bồ Tát là rao truyền rộng rãi Chánh Pháp với tất cả tâm thanh tịnh trong sáng, "không cầu tất cả danh văn và lợi dưỡng", nghĩa là không bị trói buộc vào tám pháp thế gian mà Đức Phật đã giảng trong kinh Phúng Tụng (Sangiti sutta).

Tám pháp thế gian (loka-dhamma) là:

1. Được; chữ Hán: đắc (chữ Phạn: lābhah)

2. Mất; bất đắc (alābhah)

3. Danh tiếng; danh văn (yasah)

4. Tủi nhục/tiếng xấu; ác văn (ayasah)

5. Chê; phỉ báng (nindā)

6. Khen; tán thán (prasamsa)

7. Sướng; lạc (sukham)

8. Cực; khổ (duhkham)

Trong kinh Chúng Tập thuộc bộ Kinh Trường A Hàm, cách dịch chữ Hán bản xưa cũng đồng nghĩa như trên:

1. Thay vì đắc thì gọi là lợi

2. Thay vì bất đắc thì gọi là suy

3. Thay vì danh văn thì gọi là dự

4. Thay vì ác văn thì gọi là hủy

5. Thay vì phỉ báng thì gọi là cơ

6. Thay vì tán thán thì gọi là xưng

7. Cũng gọi là lạc

8. Cũng gọi là khổ

Thuyết giảng Phật Pháp, dù có được thành công hay thất bại (đắc hay bất đắc), dù có lợi lộc hay chẳng được lợi lộc tài sản gì cả (lợi hay suy), dù có được tiếng tốt hay tiếng xấu đi nữa (danh văn hay ác văn, dự hay hủy), dù bị phỉ báng chê cười hay được khen ngợi ca tụng (phỉ báng hay tán thán, cơ hay xưng), dù được sướng hay cực khổ bực mình đi nữa (lạc hay khổ), dù ở bất cứ hoàn cảnh tốt hay xấu nào đi nữa, Bồ Tát vẫn thuyết giảng rộng rãi Phật Pháp khắp nơi, tâm trạng của Bồ Tát lúc nào cũng cảm thấy yên ổn và không bị lay động bởi tám thế pháp hay tám cơn gió độc. Điều quan trọng khiến cho Bồ Tát đạt được Đại Trí Huệ vẫn là giữ được tấm lòng trong veo trắng bạch như bầu trời không gợn một bóng mây xưa.

Điều thứ ba là siêng học Phật Pháp: Bồ Tát phải được đa văn; đừng bao giờ lầm tưởng rằng mình có thể trở thành Bồ Tát mà chẳng cần học hành gì cả; đừng bao giờ tưởng rằng mình có thể hoắc nhiên đốn ngộ mà chẳng cần tụng đọc kinh Phật !

Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng, dù không biết đọc chữ Tàu, nhưng vẫn nghe rất nhiều kinh Phật, trong Pháp Bảo Đàn Kinh có trích dẫn rất nhiều kinh điển quan trọng của Phật Pháp. Hiện nay ở Việt Nam và ở những cộng đồng Việt Nam tại khắp thế giới thường có phong trào tu thiền mà chẳng cần đọc tụng kinh luận Phật Giáo, đây là một điều sai lầm nên nêu ra thường xuyên để cảnh cáo những kẻ phá hoại Phật Pháp. Không phải chỉ cần đọc bài ba quyển về thiền học của D.T.Suzuki là có thể tự nhận là thiền sư hay thiền giả. Người ngồi tham thiền suốt cả ngày lẫn đêm mà không chịu niệm Phật A Di Đà, không chịu tụng đọc kinh luận Phật giáo thì chắc chắn chỉ thực hành tà đạo và trở nên cuồng thiền rất nhanh như chớp. Trước khi cuồng vọng đốt bỏ Kinh Kim Cang thì cũng nên thiêu đốt cái bản ngã của mình đi. Đừng bao giờ bắt chước ngôn ngữ dị thường của những bậc Thiền sư Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay Việt Nam. Chúng ta chỉ là những con sâu cái kiến và chỉ nên cố gắng bò thật chậm rãi trên những trang kinh cổ kính... Nếu kiếp này chưa đốn ngộ, chưa được là Bồ Tát, chưa thành Phật, vậy kiếp sau xin nguyện đầu thai làm chú tiểu quét lá sân chùa, như thế còn có ý nghĩa thơ mộng hơn là kiêu mạn phá hoại lòng tin trong sáng của bao nhiêu Phật tử hiền lành.

"Siêng năng tu học Phật Pháp với sự cố gắng nỗ lực khẩn cấp liên tục, giống như giải cứu cái đầu mình khỏi bị lửa cháy sém", lời dạy này của Đức Phật cần được ghi tạc bằng vàng ngọc trong tất cả thiền viện, tu viện và chùa chiền Việt Nam.

Điều thứ tư là đọc tụng kinh Phật một cách sung sướng hoan lạc và thực hành tất cả lời Phật dạy trong đời sống thường nhật và đừng để tâm trí kẹt vào ngôn thuyết. "Như thuyết thực hành" mà chẳng chấp vào ngôn thuyết, chẳng đeo níu vào ý nghĩa thông thường của ngôn ngữ mà phải nắm lấy cái tinh túy sáng rực vượt ra ngoài tất cả ý nghĩa quen thuộc của ngôn từ: học cách phá vỡ tất cả ý nghĩa hữu hạn của ngôn thuyết mà thể nhập vào tận bên trong vô lượng nghĩa của từng chữ xuất hiện trong bất cứ kinh luận Phật Pháp nào mà mình đang trì tụng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2012(Xem: 7477)
Bấy giờ, tại thành Xá-Vệ, có Bà-la-môn Trường-Thân tổ chức đại hội cúng tế rất lớn, các lễ vật gồm bảy trăm con vật và các thức ăn thức uống cũng được chuẩn bị một cách đầy đủ. Thành phần tham dự gồm có dân chúng trong vùng, các viên chức sắc trong cả nước Xá-Vệ đến, đặc biệt hơn nữa là nhiều người từ các nước khác cũng sẽ đến dự kỳ đại hội cúng tế lớn lao này.
12/06/2012(Xem: 5404)
Vào mùa thu Milarepa đi tới một địa điểm được gọi là Gepa Lesum, nơi người dân đang thu hoạch mùa màng. Ngài đang khất thực thì một thiếu nữ tên là Nyama Paldarbum nói: “Ông đi tới căn nhà ở đằng kia, con sẽ gặp ông và tặng ông thực phẩm.”
10/06/2012(Xem: 7417)
Theo truyền thống Tiểu thừa Phật giáo, chúng ta bị dính vào cõi này với sinh, tử, tái sinh và chết đi vô tận bởi chúng ta tham lam mọi thứ và bám chấp vào chúng quá nhiều. Thậm chí mặc dù, bánh xe cuộc đời này mang đến rất nhiều khổ đau cho chúng ta, ta vẫn bám lấy nó. Truyền thống Tiểu thừa nhấn mạnh vào việc loại bỏ các nguồn gốc dù là tốt đẹp của tham luyến. Theo Đại thừa, bởi ngu dốt chúng ta bị kéo vào vòng luân hồi này. Chúng ta chấp nhận những thứ không thật là thật, và chúng ta nghĩ những thứ không thật đó là sự thực đúng đắn duy nhất. Mọi thứ chúng ta nghĩ phản ánh sự hiểu sai lầm về việc mọi thứ thực sự như thế nào. Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta là phát triển cái được gọi là “trí tuệ siêu việt,” để tiêu trừ các nguồn gốc của ngu dốt này.
16/05/2012(Xem: 4789)
Hôm nay, nhân mùa an cư, về đây thuyết pháp nhắc tôi nhớ lại tỉnh Bình Phước là tỉnh đầu tiên mà tôi đã đến hoằng pháp khi tôi mới ra trường vào năm 1958, nên tôi có độ cảm sâu sắc với tỉnh nhà; đặc biệt là trong hai cuộc chiến tranh vừa qua, nhân dân ở tỉnh này đã hy sinh quá nhiều. Vì vậy, giữa những người đã khuất và những người đang sống nơi đây có sự Liên hệ mật thiết, gợi cho chúng ta suy nghĩ rằng cần phải giúp cho người khuất bóng được siêu thoát thì người sống mới phát triển được ý này trong Phật giáo gọi là âm siêu dương thới.
16/05/2012(Xem: 4513)
Trên bước đường tu hành, mục tiêu của hàng đệ tử Phật là giải thoát sinh tử, đến Niết bàn theo tinh thần Phật giáo Nguyên thủy, hay thâm nhập vào các Tịnh độ theo tinh thần Phật giáo Bắc tông. Ở đây, chúng tôi triển khai một phần về thế giới Niết bàn. Thế giới Niết bàn hoàn toàn đối lập với thế giới hữu hạn mà chúng ta đang sống. Thật vậy, tất cả vạn vật hiện hữu ở thế giới Ta bà đều bị sự chi phối của định luật vô thường, khổ, không, vô ngã, không thể khác. Loài người sống trong thế giới sinh diệt cũng không thể thoát khỏi định luật này, gọi là sinh, già, bệnh, chết. Các loài thực vật cũng có bốn tướng là sinh, trụ, hoại, diệt và thế giới cũng trải qua bốn giai đoạn là thành, trụ, hoại, không.
10/05/2012(Xem: 5475)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấy có Tỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
09/05/2012(Xem: 3901)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ ([1]) và Kinh Đại Tập ([1]) là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Chư Tổ như các ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Thiên Như, Liên Trì, Ấn Quang, v.v… cũng đều đề xướng tuyên dương pháp môn Tịnh độ.
09/05/2012(Xem: 4998)
Niệm Phật tu hành bằng chơn tâm là biết được tánh trọng yếu của vấn đề niệm Phật, không quản ngại công tác nhiều, sự tình bề bộn, tuy thân bận rộn mà tâm không bận rộn, không để việc đời vướng mắc mà bị chuyển đổi. Như gương chiếu hình, hình hiện lên không chỗ nương cậy, hình mất đi không lưu dấu; cả ngày công việc đoanh vây, mà vẫn thong dong ngoài vật. Bởi vậy, hàng ngày lợi dụng những lúc: ngủ dậy, trước khi ngủ, trước và sau khi ăn, trước khi làm việc, sau khi làm việc, lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi... Tùy thời tùy chỗ mà niệm Phật. Lúc công tác dụng tâm suy nghĩ, tạm thời gác câu niệm Phật, công việc xong rồi lại tiếp tục câu Phật hiệu. Niệm Phật nhiều để thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật thì sẽ được nhất tâm bất loạn; hiện đời này chứng được “niệm Phật tam muội” càng hay. Đó là: không làm các việc ác, vưng làm các pháp lành, tự thanh tịnh nơi ý, ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh thì lúc mệnh chung mới có thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, thần trí trong sáng th
04/05/2012(Xem: 11663)
Trong rất nhiều pháp môn tu tập theo giáo lý Phật giáo, thì mỗi một pháp môn tu tập là mỗi một con đường đi về với quê hương của chính mình, là mỗi một con đường đi về với quê hương chư Phật. Và, Tịnh độ cũng là một trong những con đường giúp ta sớm trở về với quê hương ấy.
01/05/2012(Xem: 10679)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]