Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 22: Tám bộ Hộ Trì (90)

14/05/201316:12(Xem: 13845)
Phẩm 22: Tám bộ Hộ Trì (90)

Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim)

Phẩm 22: Tám bộ Hộ Trì (90)

HT. Thích Trí Quang dịch giải

Nguồn: Bản Hoa dịch của ngài Nghĩa Tịnh

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Đại Cát Tường Thiên nữ, rằng nếu có thiện nam hay thiện nữ đức tin trong sáng nào muốn đem cúng phẩm bất tư nghị phụng hiến chư vị Như lai trong ba thì gian, lại muốn thấu hiểu hành xứ (91) rất sâu của các Ngài, thì người ấy quyết định phải hết lòng tùy bản kinh vua này ở đâu hãy diễn giảng quảng bá cho chúng sinh chỗ ấy, dầu chỗ ấy là thành thị, xóm làng hay trong chằm núi. Còn những người nghe pháp thì phải bỏ tâm tưởng tán loạn mà tập trung thính giác, chuyên chú tâm trí. Bấy giờ đức Thế tôn liền nói những chỉnh cú sau đây cho chư thiên và đại hội.

(1) Đối với chư Như lai
muốn hiến cúng siêu việt,
lại muốn hiểu lĩnh vực
sâu xa của các Ngài,
(2) thì thấy ai diễn giảng
kinh Ánh sáng hoàng kim,
hãy đích thân đi đến
những chỗ diễn giảng ấy.
(3) Kinh ấy khó nghĩ bàn,
phát sinh mọi phước đức,
trong biển khổ rộng lớn
cứu vớt bao chúng sinh.
(4) Như lai thấy kinh này
đầu giữa cuối đều hay,
đều sâu không lường nổi,
thí dụ cũng không bằng.
(5) Giả như cát sông Hằng,
bụi đại địa, nước biển,
đá núi cả không gian,
không ví được ít phần.
(6) Muốn hội nhập pháp tánh
hãy lắng nghe kinh này:
nơi chùa tháp pháp tánh
mới khéo được hội nhập.
(7) Trong chùa tháp như vậy
Thấy ta, đấng Mâu ni,
với ý đẹp lời hay
quảng diễn kinh vua này.
(8) Thấy thế nên nhiều kiếp
số lượng khó nghĩ bàn,
thường ở trong trời người
hưởng được vui siêu việt.
(9) Lắng nghe kinh vua này
hãy tư duy như vầy:
ta được một hợp thể
phước đức bất tư nghị.
(10) Giả sử khối lửa lớn
trải dài trăm thiện na,
nhưng vì nghe kinh này
bước qua không do dự.
(11) Đến chỗ giảng kinh này
được nghe kinh này rồi,
ác nghiệp loại trừ hết,
ác mộng cũng loại trừ.
(12) Ác tinh và biến quái
cổ đạo cùng tà mị,
lúc nghe được kinh này
thì rời xa tất cả.
(13) Hãy trang trí tòa cao
đẹp sạch tựa hoa sen,
pháp sư ngồi trên đó
trông như chúa đại dương.
(14) An tọa pháp tòa rồi
giảng kinh sâu xa này,
lại sao chép tụng trì
và giải thích ý nghĩa
(15) Pháp sư rời tòa ấy
đi đến các nơi khác,
thì nơi tòa cao ấy
tưởng thấy bao thần biến.
(16) Hoặc thấy hình pháp sư
còn ngồi trên tòa cao.
Hoặc thấy hình Như lai
cùng chư vị Bồ tát.
(17) Hoặc tưởng đức Phổ hiền,
hoặc tưởng Diệu cát tường,
hoặc thấy Từ thị tôn,
ngồi trên tòa cao ấy.
(18) Hoặc thấy tướng kỳ diệu
hay thấy hình chư thiên,
và mới thấy như vậy
thoạt cái đã biến mất.
(19) Thấy những điềm lành ấy
làm gì cũng vừa ý,
phước đức viên mãn cả:
Như lai nói như vậy.
(20) Siêu việt và danh tiếng,
hủy diệt mọi phiền não,
giặc ngoại xâm trừ được,
chiến đấu thường đắc thắng.
(21) Ác mộng toàn không có
độc tố cũng tiêu tan,
ác nghiệp thân miệng ý
kinh lực cũng diệt được.
(22) Trong đại lục Thiệm bộ
danh tiếng tràn đầy cả,
bao nhiêu những oán thù
rời xa được hết thảy.
(23) Thù địch đến xâm lăng
nghe danh cũng triệt thoái,
không động đến vũ khí,
đối trận sinh hoan hỷ.
(24) Phạn vương và Đế thích,
bốn Thiên vương hộ thế,
và Kim cương dược xoa,
Chánh liễu tri đại tướng,
(25) long vương hồ Vô nhiệt,
cùng với Sa yết la,
nhạc thần Khẩn na la,
Tô la kim sí chủ,
(26) Đại biện tài thiên nữ,
Đại cát tường thiên nữ,
chư thiên đứng đầu này
thống lãnh cả thiên chúng,
(27) thường hiến cúng Như lai
và Pháp bảo siêu việt,
thường sinh tâm hoan hỷ
tôn kính kinh vua này.
(28) Thiên chúng như thế này
đều cùng nhau suy nghĩ,
quan sát người làm phước
rồi cùng nói như vầy:
(29) Hãy coi những người ấy
là bậc đại phước đức,
thiện căn tinh tiến lực
sẽ sinh lên Thiên giới.
(30) Để nghe kinh vua này,
người ấy kính đến đây,
hiến cúng chùa tháp Pháp
vì lòng tôn trọng Pháp.
(31) Người ấy thương chúng sinh
mà làm đại lợi ích,
và là đồ chứa đựng
kinh vua sâu xa này.
(32) Nhập được pháp môn này
là nhập được pháp tánh,
nên với kinh Hoàng kim
hãy hết lòng lắng nghe.
(33) Người ấy đã hiến cúng
vô số chư Như lai,
do thiện căn lực ấy
mới được nghe kinh này.
(34) Do vậy các thiên chủ,
thiên nữ Đại biện tài,
thiên nữ Đại cát tường,
cùng bốn vị Thiên vương,
(35) và vô số Dược xoa
dũng mãnh đầy thần lực,
phân nhau ra bốn phía
thường đến hộ vệ cho.
(36) Nhật nguyệt và Đế thích,
chư thần nước gió lửa,
Phệ sốt nộ, Diêm la,
Đại biện tài vân vân,
(37) Các Thiên vương hộ thế
dũng liệt, đủ uy thần,
hộ vệ người trì kinh
ngày đêm không rời xa.
(38) Đại lực dược xoa vương,
Na la diên, Tự tại,
hâm tám thần Dược xoa,
Chánh liễu tri cầm đầu,
(39) và trăm ngàn Dược xoa
sức lớn lại thần thông,
thường đến chỗ hiểm nguy
ủng hộ người trì kinh.
(40) Kim cương dược xoa vương
với năm trăm tùy thuộc,
cùng chư đại bồ tát
cũng thường đến hộ trì.
(41) Bảo vương dược xoa chủ,
cùng với Mãn hiền vương,
Khoáng dã, Kim tì la,
Tân độ la, Hoàng sắc (92) .
(42) Mỗi dược xoa vương này
cùng năm trăm tùy thuộc,
thấy ai nghe kinh vua
thì cùng đến hộ vệ.
(43) Thái quân, Kiền thát bà,
Vi vương, Thường chiến thắng,
Châu cảnh và Thanh cảnh,
và Bột lý sa vương,
(44) Đại tối thắng, Đại hắc,
Tô bạt noa kê xá,
Bán chi ca, Dương túc,
cùng với Đại bà dà,
(45) Tiểu cừ và Hộ pháp,
cọng với Di hầu vương,
Châm mao và Nhật chi,
Bảo phát, cùng đến giúp.
(46) Đại cừ, Nặc câu la,
Chiên đàn, Dục trung thắng,
Xá la với Tuyết sơn,
cùng với Sa đa sơn (93) ,
(47) đều có thần thông lớn
hùng mãnh đủ đại lực,
thấy người trì kinh ấy,
cùng đến mà hộ vệ.
(48) A na bà đáp đa,
cùng với Sa yết ra,
Mục chân, Ê La diệp,
Nan đà, Nan đà nhỏ (94) ,
(49) rồng trong trăm ngàn rồng,
đủ thần thông uy đức,
cùng giúp người trì kinh,
ngày đêm không rời bỏ.
(50) Bà trĩ, La hầu la,
Tì ma chất đa la,
Mẫu chỉ chiêm bát ra,
Đại kiên và Hoan hỷ (95) .
(51) Và tô la vương khác
cùng vô số thiên chúng,
có sức lớn, mạnh mẽ,
đều đến giữ người ấy.
(52) Mẫu thần Ha lị để,
Dược xoa chúng năm trăm,
người trì kinh thức dậy
là đến hộ vệ cho.
(53) Chiên trà, Chiên trà lị,
Chiên trĩ nữ dược xoa,
Côn đế, Câu tra xỉ,
Hút tinh chất chúng sinh (96) ,
(54) thần chúng như thế ấy
sức lớn, có thần thông,
giữ gìn người trì kinh
ngày đêm thường không rời.
(55) Vô lượng các thiên nữ
Biện tài thiên cầm đầu,
bao nhiêu là tùy thuộc
Cát tường thiên lãnh đạo,
(56) Nữ thần đại địa này,
thần trái hạt vườn rừng,
thần cây, thần sông rào,
thần chùa tháp, vân vân,
(57) chư thiên thần như vậy
lòng sinh đại hoan hỷ,
cùng đến mà hộ vệ
người đọc tụng kinh vua.
(58) Thấy ai trì kinh vua,
tăng thọ lượng sắc lực,
tăng uy quang phước đức,
tăng tướng tốt trang nghiêm,
(59) mà tinh tú biến quái
xúc phạm đến người ấy,
thì đến nỗi ác mộng
cũng làm cho tan biến.
(60) Nữ thần đại địa này
Kiên cố đầy uy thế,
bằng năng lực pháp vị
của kinh vua Hoàng kim,
(61) làm cho màu mỡ đất
vốn thấm xuống rất sâu,
nay lại được thấm lên
tươi nhuần cho đại địa.
(62) Đại địa dày sáu mươi
tám ức du thiện na,
từ ngoại biên kim cương
màu đất vẫn thấm lên.
(63) Lại do nghe kinh vua
được khối đại công đức,
làm cho chính chư thiên
cũng nhờ được ích lợi;
(64) làm cho chư thiên ấy
tăng uy lực ánh sáng,
tăng hoan hỷ yên vui,
hết hiện tượng suy đồi.
(65) Đại lục phía nam này
thần cây trái lúa thóc
cũng do lực kinh vua
mà tâm thường hoan hỷ,
(66) làm lúa cây thành thục,
bông hoa đều sum sê,
trái hạt đầy phẩm chất,
tất cả tràn đại địa.
(67) Bao nhiêu loại cây cỏ,
và cả những vườn rừng,
đều sinh ra hoa đẹp,
hương thơm thường lan tỏa.
(68) Những loại cây có hoa
kết ra các thứ trái,
thì trái ngon và ngọt,
và chỗ nào cũng có.
(69) Cũng tại đại lục này,
vô số những long nữ
tâm sinh đại hoan hỷ,
cùng vào trong ao hồ.
(70) Sen hồng, sen trắng nở,
sen xanh và sen trắng,
ao hồ nào cũng trồng
và hoa đầy ao hồ.
(71) Uy lực kinh vua này
làm không gian trong sáng,
mây mù bị xua tan,
toàn bộ đều sáng sủa.
(72) Thái dương phóng ánh sáng
trong suốt và rực rỡ,
do lực kinh vua này
sáng huy hoàng khắp nơi.
(73) Uy lực kinh vua này
hỗ trợ cho quốc chúa,
có và dùng vàng ròng
mà kiến tạo cung điện.
(74) Thần thái dương vui vẻ
nhìn thấy đại lục này,
nên thường đem sáng lớn
chiếu rực khắp mọi nơi.
(75) Do vậy trong đại địa
bao nhiêu hồ ao sen,
ánh sáng chiếu đúng lúc
nên hoa sinh nở cả.
(76) Trong cả đại lục này
trái hạt và dược liệu
đều khéo thành thục hết
và tràn đầy đại địa.
(77) Do uy lực kinh vua,
nhật nguyệt chiếu đến đâu
tinh tú đúng hành độ
gió mưa thuận thời tiết.
(78) Khắp đại lục Thiệm bộ
đất nước rất giàu vui,
chỗ nào có kinh vua
hơn chỗ khác bội phần.
(79) Kinh Ánh sáng hoàng kim
quảng bá đến chỗ nào,
có người giảng và tụng
thì phước được như vậy.

Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ, cùng chư thiên vân vân, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết như vậy thì ai cũng đại hoan hỷ, nhất tâm hộ vệ kinh vua và những người thọ trì kinh vua, làm cho những người ấy không lo buồn, được an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4520)
Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.
30/10/2010(Xem: 4599)
Trước tiên chúng ta phải học “giới học” để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao?
29/10/2010(Xem: 5344)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
26/10/2010(Xem: 4585)
Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”.Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu. Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.
23/10/2010(Xem: 10446)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
22/10/2010(Xem: 4695)
Mỗi một trong vô lượng cuộc đời của chúng ta từ vô thuỷ, chúng ta phải có những bậc cha mẹ. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi một chúng sinh duy nhất hẳn đã từng là mẹ hay cha của ta. Khi chúng ta nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh này - những người từng là cha mẹ của chúng ta - đã phải lang thang quá lâu và không người cứu giúp trong vòng luân hồi sinh tử giống như những người mù lạc đường, thì chúng ta không thể không cảm thấy một lòng bi mẫn lớn lao đối với họ. Tuy nhiên, tự bản thân lòng bi mẫn thì không đủ; họ cần sự giúp đỡ thực sự.
22/10/2010(Xem: 5360)
Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
21/10/2010(Xem: 4944)
Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.
19/10/2010(Xem: 5228)
Một lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch...
16/10/2010(Xem: 5089)
Bạn đã được giới thiệu về “phương châm tu tập”, “ý nghĩa của Sám hối”, và “tâm Bồ đề”. Đó chính là những hành trang cần thiết, quan trọng để xây dựng những nhận thức căn bản và thực tiễn cho cuộc sống hạnh phúc cũng như cho cuộc hành trình tâm linh của bạn. Khi đã có đầy đủ những hành trang cần thiết cho tư duy và hành động rồi, bây giờ là lúc bạn có thể đi vào thực tập những pháp môn căn bản không phải để có ý niệm về hạnh phúc hay để lí luận về hạnh phúc, mà để “sống hạnh phúc” ngay bây giờ và ở đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]