Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhơn minh luận cương yếu

06/05/201312:50(Xem: 17734)
Nhơn minh luận cương yếu

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Khóa Thứ IX

(DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN)

--- o0o ---

TẬP BA

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI 

Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận 
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán 
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn 
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.

NHƠN MINH LUẬN 

BÀI HỌC THUỘC LÒNG

(Quí vị muốn học Nhơn minh luận được dễ hiểu, trước phải học thuộc lòng những danh từ sau đây) 

Nhơn minh nhập chánh lý luận, nội dung có ba phần (tam chi): Tôn, Nhơn, Dụ. 

Tợ "Tôn" có chín lỗi: 

25phpt09-4a (1)









Tợ "Nhơn" có 4 lỗi, phân làm 3 phần: 

25phpt09-4b









Tợ Dụ có 10 lỗi, phân làm 2 phần: 

25phpt09-4c










NHƠN MINH LUẬN CƯƠNG YẾU

NHƠN MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ? 

Trước thời Phật Thích Ca giáng sanh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm), ở Ấn độ có nhiều phái 

ngoại đạo, tranh chấp nhau bằng lý thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhơn là một trong các vị 

Tổ của các phái, lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này được tín dụng và 

đắc lực trong thời kỳ ấy. 

Đến khi Phật ra đời, thấy Nhơn minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và vừa hợp thời, 

được công chúng thừa nhận, nên Phật cũng dùng lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà giáo 

đem về chánh lý. 

Sau khi Phật nhập diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long thọ, hai vị Bồ Tát ra 

đời ở Ấn độ, sưu tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết. 

Về sau Ngài Trần Na Bồ tát, cải cách lại, thành lập Nhơn minh luận có 3 phần: Tôn, Nhơn, Dị và viết ra bộ "Nhơn minh nhập chánh lý luận". Từ ngài Trần Na về trước, người ta gọi là: "Cổ Nhơn minh"; từ Ngài Trần Na về sau là: "Tân Nhơn minh". 

Đến đời Đường, Ngài Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn độ học Phật pháp, 

rất tinh thông về môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý luận Nhơn minh 

này mà biện luận, làm cho cả Ấn độ 18 nước đều kính phục. 

Sau khi trở về nước, Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung hoa. 

Vì sự đòi hỏi của tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú giải bằng chữ Việt. 

SAO GỌI LÀ "NHƠN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN?" 

Nhơn minh luận là một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa có qui tắc. 

Điều cố yếu là phải rành rõ "nguyên nhân" hay "lý do vì sao", thì lối luận lý mới chơn chánh 

và đúng đắn, nên gọi là "Nhơn minh nhập chánh lý luận". 

Vì nhờ "Nhơn" mới rõ được Tôn, nhờ "Nhơn" mới lập được Dụ. Bởi "Nhơn" rất trọng yếu 

như vậy, nên gọi là "Nhơn minh", mà không gọi là "Tôn minh hay Dụ minh. Nhơn minh là một 

trong ngũ minh. 

NỘI DUNG CỦA NHƠN MINH 

Nội dung của Nhơn minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ. Theo Cổ Nhơn minh có thêm 

2 phần: Hiệp và Kết là 5 phần: 

25phpt09-4d

25phpt09-4d







A.TÔN

Phàm nói ra một câu gì, hày trình bày một lập thuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi là Tôn. Như nói: “Tôi ăn cơm”. 

Tôn có nhiều tên, như: 

1. Tiền trần (danh từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 

2. Hậu trần (danh từ sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt. 

Thí dụ như nói: Tôi ăn cơm 

Tôi Tiền trần(danh từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 

ăên cơm Hậu trần (danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt. 

TÔN CÓ TÔN Y VÀ TÔN THỂ 

I. Tôn y gồm có 2 phần :

1. Tiền trần: Hữu pháp, Sở biệt và Tự tướng

2. Hậu trần: Pháp, Năng biệt và Sai biệt. 

II. Tôn thể. - Cổ Nhơn minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu trần làm 

Tôn thể. 

Tân Nhơ minh (từ Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vật kiện để lập Tôn, 

nên đều là Tôn y. Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể. 

CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN 

Phàm lập Tôn phải tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ tư cách để 

thành lập luận thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi gồm có: 

1. Hiện lượng tương vi. - Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như hiện tiền ai cũng hiểu 

biết rằng: Mũi ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v...Nay lại lập cái Tôn rằng: 

Tôn: 1. Tai tôi nghe mùi thơm 

2. Mắt tôi thấy tiếng nói v.v ... 

Vì nói như vậy là trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy mình nói sai rồi. 

Tôn đã sai thì làm sao lập được "Nhơn" và "Dụ". 

2. Tỷ lượng tương vi. - Lập cái Tôn trái với sự "so sánh phân biệt". Theo sự so sánh hiểu biết 

của người: Phàm là người, ai cũng phải chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có 

hình phải có hoại, cũng như bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại lập Tôn rằng:

Tôn: 1. Tôi sống hoài không chết.

2. Cái nhà tôi không bao giờ hư. 

Lập Tôn như vậy là trái với sự "so sánh phân biệt" của người, nên có lỗi. 

3. Tự giáo tương vi. - Lập cái Tôn, trái với giáo lý của mình tôn thờ. Nói rộng ra là trái với chủ 

nghĩa, đảng phái, gia đình, quốc gia hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng. 

Như trong Đạo Phật nói "Chúng sanh có quả báo luân hồi". Và nói "Có thế giới cực lạc ở 

phương Tây v.v...". Chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng: 

Tôn: 1. Chúng sanh không có luân hồi quả báo

2. Không có nước Cực lạc. 

Ngoại nhơn hỏi lại: "Ông nói như vầy, thì mâu thuẫn với Tôn giáo của ông. Vậy ông nói 

đúng lý, hay Tôn giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời nói ông sai, 

còn lời nói của ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái nào đúng?" 

Họ không cần bác mà mình cũng bị thua. 

4. Thế gian tương vi. - Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự hiểu biết của thế gian. 

Thế gian có 2 hạng người: Có học thức và không học thức. 

Nếu đối với người có học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy: 

Tôn: 1. Ông Thiên lôi đánh anhXoài chết 

2. Bịnh ho lao không phải do vi trùng gây nên. 

Lập cái Tôn như thế, bị lỗi trái với thế gian, với những người có học thức (Khoa học). 

Vì khoa học (người có học thức) nói "bịnh ho lao do vi trùng gây nên", và không công nhận 

có ông Thiên lôi. Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có học thức. 

Trái lại, nếu đối với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, cũng bị lỗi 

thế gian tương vi. 


Tôn: 1. Không có ông Thần ban phuớc giáng hoạ. 

2. Bịnh ho lao phát sinh do vi trùng. 

Bởi thế người thế gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng hoạ và họ không biết vi trùng. 

Mặc dù chúng ta nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên họ không công nhận. 

Bởi họ không công nhận, nên lời
nói sau của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi 

"Thế gian tương vi". 

5. Tự ngữ tương vi. - Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình tự mâu thuẫn với lời nói trước 

của mình. Như lập: 

Tôn: 1. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy? 

2. Ông này mù mà cái chi cũng thấy hết. 

Đã không biết giá là bao nhêu, tại sao biết rẻ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng thấy. 

Lời nói của mình tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai, thì ai 

công nhận là phải. 

6. Năng biệt bất cực thành. - Lập cái Tôn mà "danh từ sau" bên đối phương không công nhận. 

Như đối với Phật học hay Khoa họ
c mà lập cái Tôn như vầy: 

Tôn: 1. Thế giới này (danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sanh.

2. Anh Ồi (danh từ trước) bị Thiên lôi(danh từ sau) đánh. 

Phật học và Khoa học đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có 

"Thần Tạo vật" và "Thiên lôi". Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi "bất thành". 

7. Sở biệt bất cưc thành. - Lập cái Tôn mà "danh từ trước" bên đối phương không công nhận. 

Như đối với Phật học và khoa học, lập như vầy: 

Tôn: 1. Thần Tạo vật(danh từ trước) sanh ra loài người.

2. Thái cực(danh từ trước) sanh ra vạn vật. 

Loài người và vạn vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhận có: còn 

Thần Tạo vật và Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc học đều không công nhận, nên bị lỗi "bất thành". 

8. Câu bất cực thành. - Lập cái Tôn mà "danh từ trước" và "danh từ sau", bên đối phương 

đều không nhìn nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy: 

Tôn: 1. Cốc thần, Thái cựctức là Chơn như.

2. Thần Tạo vậtchính là Thái cực

Bên Khoa học không nhìn nhận danh từ trước là "Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo vật" và cũng 

không nhìn nhận danh từ sau là "Chơn như hay Thái cực". Phàm lập luận mà bên đối phương 

không hiểu, hoặc hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữa. Nên bị lỗi "bất thành". 

Tóm lại, ba lỗi bất thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối phương không hiểu, 

hoặc hiểu mà không công nhận. Bởi hai nguyên nhơn: 

1. Lập không đúng. 

2. Lập đúng mà thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy. 

9. Tương phù cực thành. - Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương. Như lập: 

Tôn: 1. Cơm ăn no bụng.

2. Nước uống đã khác. 

Phàm cãi nhau là vì hai bên ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như mình, mà mình 

còn lập thêm cái tôn ra nữa thì vô ích, nên bị lỗi "tương phù" (trùng điệp). 

Trong 9 lỗi về Tôn, tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi "tương vi"; từ 6 đến 8 là thuộc vể lỗi "Bất thành". 

Lỗi thứ 9 vì lập trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tợ Tôn, giải thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn. 

PHỤ BÀI HỌC ÔN (ÔN LẠI 9 LỖI VỀ TỢ TÔN)

Quý vị nên xét kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc về lỗi gì? 

1. Mẹ tôi không có chồng. 

2. Không có Trời Đất Quỷ Thần. 

3. Không Nhơn quả, Luân hồi. 

4. Không Thiên đường và Địa ngục. 

5. Trời sanh muôn loại. 

6. Trời không luân hồi. 

7. Minh sơ sanh Thần ngã. 

8. Vò vò bắt sâu làm con của nó. 

9. Tai nghe mùi thơm. 

10. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi. 

11. Tôi trường sanh bất tử. 

12. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy. 

13. Ông mù này, cái chi cũng thấy. 

14. Ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ. 

B. NHƠN

Nhơn là nguyên nhơn hay lý do. Phàm một sự vật hay câu nói gì, cũng đều có nguyên nhơn 
hay lý do cả.

Như nói: - Tôn : Tôi muốn ăn cơm. 

- Nhơn: Vì tôi đói bụng vậy (lý do). 

Phàm cái "Nhơn" nào đủ cả ba tánh chất sau đây, mới đúng đắn. Trái lại, nếu thiếu một, 

thiếu hai, hoặc thiếu ba, thì cái Nhơn ấy có lỗi. 14 lỗi về Nhơn sau này, cũng bởi thiếu một, hai hoặc ba tánh chất sau đây. Vậy quý vị nên nhớ kỹ ba tánh chất của Nhơn. 

1. Biến thị Tôn pháp tánh. - Nghĩa là: Cái Nhơn phải bao trùm cả Tôn (tánh chất thứ nhứt). 

25phpt09-4e


Như Lập:
- Tôn: Tôi muốn ăn cơm. 

25phpt09-4f












- Nhơn: Vì tôi đói bụng vậy. 

Cái Nhơn "Vì tôi đói bụng" này, nó trùm được danh từ trước của Tôn là "Tôi muốn"; và cũng trùm được danh từ sau của Tôn là "Ăn cơm". 

Nghĩa là: Vì tôi đói bụng, nên "tôi muốn"; và vì tôi đói bụng, nên "tôi ăn cơm". 

2. Đồng phẩm định hữu tánh. - Nghĩa là cái Nhơn quyết định phải hoàn toàn hoặc ít nhứt là phải có một phần liên quan với Đồng dụ. Nó phải là đồng một tánh chất như Đồng dụ (tánh chất 

thứ hai của Nhơn). 

BIỂU

TÔN

- Tôn: Tôi muốn ăn cơm 

Như lập:

- Nhơn: Vì đói bụng vậy 

- Đồng dụ: Như anh A (đói bụng và muốn ăn cơm) 

"Như anh A " là đồng dụ. Nghĩa là anh A cũng "vì đói bụng" (Nhơn) nên "muốn ăn cơm" (Tôn).

Cái Nhơn "vì đói bụng" này, hoàn toàn liên quan với Tôn và Đồng dụ (thí dụ thuận). 

3. Dị phẩm biến vô tánh. - Cái "Nhơn" này đối với Dị dụ (thí dụ về bề trái) phải hoàn toàn 

không liên quan; nghĩa là tánh chất của Nhơn, phải hoàn toàn không có trong Dị dụ mới được 

(tánh chất thứ ba của Nhơn). 

BIỂU 

- Tôn: Tôi muốn ăn cơm

Như lập:

- Nhơn: Vì đói bụng vậy lập

- Đồng dụ: Như anh A (đói bụng, muốn ăn)

- Dị dụ: Như anh B (no bụng không muốn ăn)

Cái Nhơn "vì đói bụng" này, đối với Dị dụ hoàn toàn không có liên quan; nghĩa là: anh B (Dị dụ) đã no bụng (trái với Nhơn: đói bụng), nên không muốn ăn (trái với Tôn: muốn ăn). 

14 LỖI VỀ NHƠN 

Phàm lập cái "Nhơn", phải tránh 14 lỗi sau này, thì cái "Nhơn" ấy mới hoàn toàn đúng đắn, 

chia làm 3 loại: 

1. BỐN LỖI BẤT THÀNH: 

1. Lưỡng câu bất thành. - Lập cái Nhơn mà cả chủ và khách đều không nhìn nhận. 

Như lập:

- Tôn: con rắn Hổ mây chạy mau. 

- Nhơn: Vì nó có chân vậy (nguyên nhơn) 

Cả chủ và khách đều không nhìn nhận "rắn hổ có chân". Nay lại lập cái Nhơn "vì có chân", 
nên cái Nhơn này chẳng thành. 

2. Tuỳ nhứt bất thành. - Phàm lập cái Nhơn, phải chủ và khách hai bên đều công nhận, ít nhứt 

là một bên khách phải có công nhận, thì cái nhơn ấy mới thành. Nay cái Nhơn này bên khách 
không công nhận nên bị lỗi "Tuỳ nhứt bất thành". Như đối với nhà Khoa học mà lập như vầy: 

Như lập:

- Tôn: Vò vò không sanh con (trứng) 

- Nhơn: Vì nó bắt sâu làm con vậy. 

Theo Khoa học nói con Vò vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi, để cho con nó khi nở ra có mồi ăn. Nay lập cái Nhơn "bắt sâu làm con" thì bên khách (Khoa học) không công nhận, nên bị lỗi. 

3. Dự dự bất thành. - cái Nhơn dụ dự chẳng nhứt định, nên không thành. Như ở xa thấy mù mù, 

không rõ đó là sương mù hay khói mù, lại lập như vầy: 

Như lập:

- Tôn: Chỗ kia có lữa 

- Nhơn: Vì có mù (mây mù).

Nếu vì “khói mù” thì cái Tôn này có lửa (đúng); còn nếu vì “mây mù” thì cái Tôn này không lửa (không đúng).

Cái Nhơn này người ta có thể lập ngược lại như vậy:

Như lập:

- Tôn: Chỗ kia không lữa 

- Nhơn: Vì có mù (mây mù).

Bởi cái Nhơn này có thể lập được cả hai Tôn, vừa "có lữa" và vừa "không có lữa", 

dụ dự không nhứt định, nên bị lỗi "bất thành". 

4. Sở y bất thành. - Chỗ y cứ của mình, bên khách không công nhận. Như tín đồ Nhứt 
thần giáo đối với Khoa học hoặc Phật giáo mà lập như vầy: 

Như lập:
- Tôn: Thần sanh ra mọi vật 

- Nhơn: Vì trong kinh của Đạo tôi nói vậy. 

Phải là tín đồ của Tôn giáo họ, mới nhìn nhận kinh của Đạo họ là đúng. Còn đối với khoa học hay Phật giáo, không nhìn nhận kinh sách của họ, mà y cứ nơi kinh sách đó để lập luận với người ngoài Đạo mình, nên bị lỗi "sở y bất thành". 

Một tỷ dụ thứ hai: Theo trong Nhơn minh có lập cái lượng như vầy: 

Như lập:
- Tôn: Hư không có thật. 

- Nhơn: Vì muôn vật đều y hư không vậy. 

Phái "vô không luận", họ chẳng công nhận "thật có hư không". Nếu với phái này, mà lập cái Nhơn như vậy thì bị lỗi "sở y bất thành". 

Bốn lỗi "bất thành" đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi "bất định" 

II. SÁU LỖI BẤT ĐỊNH: 

1. Cộng bất định. - Cái Nhơn này liên quan cả Đồng dụ và Dị dụ, nên bị lỗi "không nhứt định" 

BIỂU 

- Tôn: Anh A đau

Như lập:- Nhơn: Vì ăn xoài sống 

- Đồng dụ: Như anh B (ăn xoài sống và đau)

- Dị dụ: Như anh D (ăn xoài sống, không đau) 

Nếu nói anh A "vì ăn xoài sống" mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng "ăn xoài sống" 

mà lại không đau? Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại rằng: 

- Tôn: Anh D không đau 

- Nhơn: vì ăn xoài sống 

Như lập:

- Đồng dụ: Như anh D (ăn xoài sống và không đau) 

- Dị dụ: Như anh A (ăn xoài sống, đau) 

Người ta có thể nói rằng: Vậy thì "vì ăn xoài sống" mà bị đau như anh A, hay "vì ăn xoài sống" 

mà không đau như anh D? 

Bởi lập cái Nhơn bất định như vậy nên có lỗi. 

2. Bất cộng bất định. - Cái nhơn này không có liên quan với Đồng dụ. 

BIỂU 

- Tôn: Tiếng là thường còn 

- Nhơn: vì tai nghe vậy 

Như lập :- Đồng dụ: Như hư không (tai không nghe) 

- Dị dụ: Như cỏ cây (tai không nghe).

Cái Nhơn "vì tai nghe" này, đối với "Đồng dụ" và Dị dụ đều không có liên quan chút nào cả, nên cũng bị lỗi "bất định". Bởi cái nhơn này người ta có thể lập ngược lại như vầy: 

- Tôn : Tiếng là vô thường 

Như lập :- Nhơn : Vì tai nghe vậy 

- Đồng dụ: Như cỏ cây (vô thường) 

- Dị dụ : Như hư không (thường còn) 

Vậy, "vì tai nghe" mà tiếng nói thường còn như hư không? Hay "vì tai nghe" mà tiếng nói 

vô thường như cỏ cây? Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 

3. Đồng phẩm nhứt phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định: 

BIỂU 

TÔN

Text Box: TÔN

- Tôn : Chỗ kia có khói,

Như lập:- Nhơn: Vì có lửa vậy 

- Đồng dụ: - Như lửa rượu alcool (có lửa, không khói)

- Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói)

- Dị dụ: Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói).

Nếu cái Nhơn "vì có lửa", dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có "khói"; còn "vì có lửa", dụ như lửa rượu, thì cái Tôn này "không khói". Vì cái Nhơn này, đối với Tôn "có khói" hay "không khói" đều không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định. Bởi người ta có thể lập ngược lại như vầy:

- Tôn : Chỗ kia không khói 

Như lập:- Nhơn : Vì có lửa vậy 

- Đồng dụ: Như lửa Alcool (có lửa, không khói) 

- Dị dụ : Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói) 

4. Dị phẩm nhứt phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định: 

Cái Nhơn này đối với Dị dụ có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ thì phải hoàn toàn 

dính líu, nên cái Nhơn này cũng bị lỗi "bất định". 

- Tôn : Con khỉ leo cây giỏi 

Như lập:- Nhơn: Vì có hai tay. 

- Đồng dụ: Như con vượn

- Dị dụ: - Như con bò (không tay, không biết leo) 

- Như con rắn (không tay, leo cây giỏi). 

Phàm Đồng dụ thì phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị dụ thì hoàn toàn không 
dính líu gì đến Tôn và Nhơn, như thế mới đúng. 

Nay cái Nhơn này, đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tánh chất thứ ba của 

Nhơn là "Dị phẩm biến vô tánh", nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: "Vì không tay, 

nên leo cây giỏi như con rắn"; hay vì không tay, nên "chẳng biết lao cây như con bò?". 

Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 

5. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định: 

Cái Nhơn này, đối với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng bị lỗi "bất định". 

- Tôn: Tiếng vô thường 

BIỂU

Như lập:

- Nhơn: Vì mắt không trông thấy 

- Đồng dụ: - Như tánh giận, buồn v.v... (mắt không thấy và vô thường) 

TÔN

Text Box: TÔN

- Như ruộng, nhà v.v...(mắt thấy và cũng vô thường) 

- Dị dụ: - Như Hư không (vô thường, mắt không thấy) 

- Như Giác tánh (thường, mắt không thấy) 

Cái thí dụ thứ hai: 

- Tôn: Người ta ai cũng phải chết 

- Nhơn: Vì vật hữu tình vậy 

Như lập :

- Đồng dụ : - Như cầm thú (hữu hình dụ có chết) 

- Như nước biển (hữu hình, không chết) 

- Dị dụ: - Như hư không (vô hình không chết) 

- Như tượng gỗ (hữu hình không chết) 

Nếu cái Nhơn "vì hữu hình" này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn này “có chết", còn cái Nhơn 

"vì hữu hình" mà thí dụ như nước, thì cái Tôn này "không chết". 

Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật "không chết". (trái với Tôn) và "vô hình" (trái với Nhơn) để làm thí dụ. - Nay cái Dị dụ này chỉ trái với Nhơn được phân nữa. Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: vậy "hư không, không chết" vì vô hình vậy? Hay "tượng gỗ không chết" vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình (tượng gỗ) vô hình (hư không) đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 

6. Tương vi quyết định bất định: 

Chủ và khách lập lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết định thành lập được. Nhưng không bên nào phá được bên nào. 

- Tôn : Sóng thường còn 

Khách lập:

- Nhơn: Vì sóng tức là nước 

- Đồng dụ : Như điện. 

- Tôn : Sóng là vô thường 

Chủ phá :

- Nhơn : Vì chuyển động dược 

- Đồng dụ : Như gió. 

Hai cái lượng này rất mâu thuẫn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên khách vẫn 
công nhận "sóng có chuyển động", bên chủ cũng nhận "sóng tức là nước". Nhưng không bên 
nào phá được bên nào, nên Nhơn này bị lỗi "bất định". Đây cũng là vì thiếu lời lẽ khôn khéo, 
để làm cho người ta phục mình. Thưở xưa có người nói: “Ai lập trước thì hơn". 

Phải lập như vầy:

- Tôn : Sóng không thường còn 

- Nhơn : Vì nó là nước bị gió động 

- Đồng dụ: Cũng như gió. 

6 lỗi "Bất định" đã giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi. 

III. BỐN LỖI TƯƠNG VI 

1. Pháp tự tướng tương vi.

- Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với tự tướng (lời nói trắng) 

của danh từ sau. 

- Tôn: Gió thường còn 

Như lập:

- Nhơn : Vì có động vậy 

- Đồng dụ : Như hư không 

- Dị dụ : Như sóng. 

Đã có động thì làm sao lại thường còn; nên cái Nhơn "có động" này, rất trái với tiếng 

"thường còn" là lời nói trắng về danh từ sau của Tôn. 

2. Pháp sai biệt tương vi Nhơn.

- Cái Nhơn trái (mâu thuẫn) với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau. 

- Tôn: Loài người quyết định có người tạo ra (ý hứa là một vị thần).

Như lập:

- Nhơn : Vì có trí khôn và mắt, tai v.v... 

- Đồng dụ : Như con do cha mẹ sanh ra 

Trong cái Tôn này, về chữ "quyết định có người tạo ra" là do người lập Tôn, ẩn ý của họ 

muốn nói: Người tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba đức tánh sau này: 1. Toàn trí toàn năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn. Nhưng cái Nhơn này nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ: 

1. Nếu vị thần ấy tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v...như cha mẹ sanh con; vậy cha mẹ "không toàn trí toàn năng", vì sanh ra có những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy cũng "không toàn trí toàn năng" vì tạo ra loài người mà có những kẻ oán trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không biết bao nhiêu những điều bất bình đẳng. 

2. Cha mẹ sanh ra con, đến khi già phải chết "không phải thường còn"; vậy vị Thần ấy đã 

sanh ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải chết, "không thường còn". 

3. Cha mẹ sanh ra con, tất nhiên phải có Ông, Bà sanh lại cha mẹ, nên cha mẹ không phải 

"độc tôn". Vậy thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải có một vị thần 

lớn hơn sanh ra, nên vị thần ấy cũng không "độc tôn". 

Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi mâu thuẫn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là "người tạo ra". 

3. Hữu pháp tự tưởng tương vi Nhơn. - Cái Nhơn mâu thuẫn với lời nói trắng (tự tướng) 

về danh từ trước của Tôn. 

- Tôn : Phải có một ông Vô hình tạo ra Vũ trụ 

Như lập:

- Nhơn :Vì Vũ trụ có trật tự vậy 

- Đồng dụ: Như ông Kiến trúc sư làm nhà. 

Cái Nhơn "Vì vũ trụ có trật tự" này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn là "Ông Vô hình". Đã Vô hình thì làm sao tạo ra Vũ trụ là vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo ra vật hữu hình. Như ông kiến trúc sư, vì hữu hình mới tạo ra cái nhà hữu hình được. 

4. Hữu pháp sai biệt tương vi nhơn. - Cái Nhơn trái ngược với ý hứa (ẩn ý) về danh từ 

trước của Tôn. 

- Tôn : Phải có một đấng sanh ra vũ trụ 

Như lập:

- Nhơn : Vì vũ trụ có thứ tự vậy. 

- Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà. 

Người lập lượng này, nếu nói trắng ra "Có một ông Thần", thì sợ bên đối phương không 

công nhận, mà phải bị lỗi "Sở biệt bất thành", nên họ chỉ nói một cách hồn hàm là "Có một Đấng". Song ẩn ý của họ muốn nói "Đấng ấy là một vị Thần"; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường còn, 2. Cao cả, 3. Sanh vạn vật. 

Nhưng Đấng ấy đã sanh ra được vạn vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị người khác 

lớn hơn sanh ra và chết; không phải cao cả và thường còn. Cũng như ông thợ làm nhà. 

Vì cái Nhơn này, trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi "tương vi". Ngoại nhơn có thể lập lượng bác lại rằng: 

- Tôn: Đấng ấy phải bị người khác sanh ra và phải chết. 

Như lập :

- Nhơn : Vì Đấng ấy sanh ra vũ trụ vậy. 

- Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà. 

14 lỗi về Tợ Nhơn, chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ dụ. 

PHỤ BÀI ÔN HỌC (ÔN LẠI 14 LỖI VỀ TỢ NHƠN)

Quí vị nên xét kỹ các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và nói rõ tại sao 

Lượng thứ I:

- Tôn: Nhơn loại quyết định có người tạo

- Nhơn : Vì có trí khôn và đủ cả mắt, tai v.v...

- Đồng dụ : Như con, phài có cha mẹ sanh ra. 

Lượng thứ II:

- Tôn: Gió thường còn

- Nhơn : Vì có động vậy

- Đồng dụ: Như hư không

- Dị dụ: Như sóng 

Lượng thứ III:

- Tôn: Phải có một Đấng sanh ra vũ trụ 

- Nhơn : Vì vũ trụ có trật tự vậy

- Đồng dụ : Như ông Kiến trúc sư làm nhà 

Lượng thứ IV:

- Tôn: Phải có một ông vô hình tạo ra vũ trụ

- Nhơn : Vì vũ trụ có trật tự vậy

- Đồng dụ : Như ông thọ làm nhà. 

***

C. DỤ

Phàm lấy một vật gì mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chúng minh 

với một vật khá mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi là "Dụ". 

Thí dụ khi lập cái "Tôn thường còn", thì phải lấy tất cả những vật "thường còn" làm Đồng dụ; 

trái lại, phải lấy tất cả những vật "vô thường" làm Dị dụ. 

Về Tợ dụ có 10, chia làm 2 loại: 

I. TỢ ĐỔNG DỤ CÓ 5: 

1. Năng lập pháp bất thành. -Phàm cái Nhơn là để thành lập cái Tôn, nên cái Nhơn là 

"Năng lập pháp" còn cái Tôn là "Sở lập pháp". Cái Dụ này trái ngược Nhơn, nên bị lỗi "bất thành" 

Như lập:

- Tôn: Con ngựa chạy hay

- Nhơn : Vì có bốn vó

- Đồng dụ : Như con rắn hổ ngựa 

Cái Dụ này hiệp với Tôn (chạy hay), trái với Nhơn (thiếu chân) 

2. Sở lập pháp bất thành. - Nhơn là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập). Cái dụ này trái ngược 

với Tôn, nên cũng bị lỗi "bất thành". 

Như lập:

- Tôn: Người ta không bay được.

- Nhơn : Vì thiếu hai cánh

- Đồng dụ : Như mây (không cánh, bay được) 

Cái Dụ này hiệp với Nhơn (thiếu cánh) và trái với Tôn (không bay).

3. Câu bất thành.

– Cái Dụ này trái ngược với Tôn và Nhơn. Bởi lấy Dị dụ làm Đồng dụ, nên bị lỗi "bất thành". 

Như lập:

- Tôn : Tiếng thường còn

- Nhơn : Vì tai nghe vậy

- Đồng dụ : Như bàn, ghế. 

Bàn, ghế "vô thường" nên trái với Tôn, và "tai không nghe được", nên trái với Nhơn. 

4. Vô hiệp. - Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ hiểu. 

Như lập:

- Tôn : Người ta phải chết 

- Nhơn : Vì có sanh vậy

- Đồng dụ : Như chim v.v... 

Đáng lẽ phải nói lời phối hiệp để kết thúc lại như vầy: "Người ta có sanh (Nhơn) phải có chết 

(Tôn). Phàm vật gì có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v..."thời người ta mới dễ hiểu. Cái này chỉ nói tắt rằng "như chim"; làm cho người ta không hiểu: Như chim có hai cánh, hay là như chim có mỏ? nên bị lỗi "vô hiệp". 

5. Đảo hiệp. - Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc phối hiệp thì phải nói cái Nhơn trước rồi nói cái Tôn sau. 

Như lập:

- Tôn : Người ta phải chết 

- Nhơn : Vì có sanh vậy 

- Đồng dụ : Phàm vật gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn) như chim v.v ... 

Nay kết thúc lại trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi Nhơn sau.

Như lập:

- Tôn : Người ta phải chết 

- Nhơn : Vì có sanh vậy

- Đồng dụ : Phàm có chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim v.v ... 

Bởi vì nói "có sanh phải có chết" thì ai cũng thấy; còn nói "có chết phải có sanh", người ta 

khó nhận. 

II. TỢ DỊ DỤ CÓ 5: 

Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải hoàn toàn trái ngược với Tôn và Nhơn. 

1. Sở lập pháp bất khiển. - Cái Dị dụ này không trái với Tôn 

Như lập:

- Tôn : Tiếng nói thường còn

- Nhơn : Vì vô hình vậy

- Đồng dụ : Như hư không

- Dị dụ: như vi trần (vi trần hữu hình và thường còn) 

vi trần có hình chất mà lại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái với 

Nhơn (vô hình) mà không trái với Tôn (thường) nên bị lỗi. 

2. Năng lập pháp bất khiển. - Cái Dị dụ này không trái với Nhơn 

Như lập:

- Tôn : Tiếng nói thường còn

- Nhơn : Vì vô hình vậy

- Đồng dụ : Như hư không 

- Dị dụ: như điện chớp (vô hình, không thường). 

Lấy điện chớp làm Dị dụ, thì chỉ trái với "Tôn thường còn", mà không trái với 

"Nhơn vô hình", nên bị lỗi. 

3. Câu bất khiển. - Cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn. Lỗi này vì lấy Đồng dụ làm Dị dụ. 

Như lập:

- Tôn : Người phải chết

- Nhơn: Vì có sanh vậy

- Đồng dụ : Như cỏ cây

- Dị dụ: như loài vật 

Phàm Dị dụ là phải trái với Tôn và Nhơn. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với Tôn và 

Nhơn nên bị lỗi. 

4. Bất ly. - Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn 

Như lập:

- Tôn : Tiếng nói thường còn

- Nhơn : Vì không hình chất 

- Đồng dụ : Những gì vô hình đều thường còn, như hư không 

- Dị dụ: như bàn ghế 

Về Dị dụ, đáng lẽ cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn như vậy: 

"Phàm những gì vô thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế". Nay chỉ nói tắt rằng: 

"Như bàn ghế" Làm cho người ta không hiểu: Như bàn ghế có bốn chân? Hay như bàn ghế có mặt? 

Phải lưu ý: Về Đồng dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "Vô hiệp"; 

còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "bất ly". 

5. Đảo ly. - Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhơn, lại phối hiệp một cách trái ngược. 

Như lập:

- Tôn : Tiếng thường còn

- Nhơn : Vì vô chất ngại

- Đồng dụ : Như hư không 

- Dị dụ: những gì có chất ngại (Nhơn) đều vô thường (Tôn) như bình, bàn v.v... 

Phàm lời phối hiệp để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau, mới thuận. 

Như nói: "Những gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn v.v... 

"Nay phối hiệp ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi "Đảo ly". 

Lưu ý:- về Đồng dụ, khi kết thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi 

"Đảo hiệp". Về Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi 

"Đảo ly". 10 lỗi về Tợ Dụ đã giải thích rồi. 

PHỤ BÀI HỌC ÔN

Quý vị nên xét kỹ các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhơn thuộc về lỗi gì? Và Dụ thuộc về lỗi gì? 

Lượng thứ I:

- Tôn : Người ta phài chết 

- Nhơn : Vì có sanh vậy 

- Đồng dụ : Phàm có chết phải có sanh, như chim 

- Dị dụ: Phàm không sanh thì không chết, như hư không 

Lượng thứ II:

- Tôn : Tiếng nói thường còn 

- Nhơn : Vì vô hình vậy 

- Đồng dụ : Như hư không 

- Dị dụ: Như vi trần 

Lượng thứ III:

- Tôn : Tiếng nói thường còn 

- Nhơn : Vì tai nghe vậy 

- Đồng dụ : Như hư không 

- Dị dụ: Như điện chớp 

Lượng thứ IV:

- Tôn : Người ta phải chết 

- Nhơn : Vì có sanh vậy 

- Đồng dụ : Như cỏ cây 

- Dị dụ: Như loài vật. Hoặc lập nhiều lượng khác 

LỢI ÍCH HỌC NHƠN MINH LUẬN

Trong các Kinh điển Đại thừa, phần nhiều Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh (1. Nội minh, 2. Nhơn minh, v.v...) thời việc hoá đạo mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhơn minh là một. 

Nhờ biết Nhơn minh nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục được các tà thuyết đem về chánh đạo. 

Nhờ biết Nhơn minh, mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các bộ luận ấy phần nhiều dùng Nhơn minh để lập Chánh lý và phá các tà thuyết. 

Tóm lại, Nhơn minh là một môn Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho người. 

Sa môn THÍCH THIỆN HOA

Sửa lại và viết xong mùa thu năm Mậu tuất (1958)

Chùa PHẬT QUANG (Trà Ôn) 

--- o0o ---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5875)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6033)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6872)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5891)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6605)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7989)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7116)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6394)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7204)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6053)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567