Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khóa Hư Lục

22/04/201311:38(Xem: 15547)
Khóa Hư Lục

 

khoahuluccover


Khóa Hư Lục

Tác giả:Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả:HT. Thích Thanh Kiểm

---o0o---


Lời Tựa

Bộ sách này có thể gọi là kinh "Khóa Hư" vì là cả một đời thực nghiệm về chân lý sinh tồn của tác giả. Tác giả là một vị vua khai sáng ra triều đại nhà Trần, oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc, ba phen đánh đuổi quân xâm lăng Mông Nguyên, từng chinh phục thế giới từ Á sang Âu "đi đến đâu cỏ không mọc lên được".

Nhà vua đã trải qua cuộc đời bi kịch, bố mẹ mất sớm, một mình đối phó với ông chú Phụ-chính, cùng với Thiên-Cực Công chúa bày mưu lập vợ Hoài-Vương đang có mang lên thay Lý-Chiêu-Hoàng vì Chiêu Thánh đã 20 năm chưa có con. Do đấy mà Trần Liễu (Ân Sinh Vương) mất vợ, nổi loạn và Trần Thái Tông bất nhẫn bỏ cung điện trốn vào núi An-Tử, hòng cầu Phật giáo để giải thoát. Đây chính là lời Trần Thái Tông viết:

"Bấy giờ ý chí của Trẫm đã nhất quyết. Hiệu Thiên-Ứng Chính-Bình thứ 5 (1245), năm Bính-Thân, đêm 3 tháng 4. Trẫm nhân mặc áo mỏng thường đi ra cửa cung, bảo tả hữu "Ta muốn đi chơi, nghe trộm lời dân để xem nguyện vọng của chúng, họa may biết được sự khó nhọc của họ. Lúc ấy đi theo bên trẫm bất quá bảy tám người. Đến đêm vào giờ hợi, một mình một ngựa cất lẻn ra đi. Khi đã qua sông Nhị, liền hướng phiá đông mà tiến mới thật tình bảo cho tả hữu biết. Họ kinh ngạc, đều ứa nước mắt khóc. Sáng hôm sau vào giờ mão thì đến bến Đại-Than chân núi Phả-Lại. Trẫm e có kẻ nhận biết, nên phải lấy vạt áo che mặt mà qua sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối, vào nghỉ trong chùa Giác-Hạnh đợi sáng lại đi. Trèo lội vất vả, núi hiểm, suối sâu, ngựa mệt không tiến được nữa. Trẫm bèn bỏ ngựa, vịn vách đá mà đi. Đến giờ mùi mới tới An-Tử. Qua hôm sau, trèo thẳng lên đỉnh, vào ra mắt Quốc-Sư Trúc-Lâm là vị đại Sa-môn ở đây.

Thấy Trẫm Quốc Sư (Phù Vân) mừng hớn hở thong thả nói: "Lão tăng ở núi rừng lâu, xương cứng, thể gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui thú cảnh rừng, nhẹ như mây nổi nên theo gió đến đây. Nay nhà Vua bỏ địa vị nhân chủ, nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn có ý tìm hỏi điều gì mới tới đây?".

Trẫm nghe Sư nói, hai hàng nước mắt tự nhiên khôn cầm, nhân mới đáp: "Trẫm còn thơ ấu, sớm mất hai thân; bơ vơ đứng trên sĩ dân, không nơi nương tựa. Nghĩ lại sự nghiệp của đế vương đời trước thịnh suy không thường, cho nên vào núi chỉ cầu làm Phật không cầu chi khác!" Sư đáp: "Núi vốn không có Phật. Phật ở nơi tâm người, tâm lặng mà biết ấy là chân Phật. Nay nếu nhà vua giác ngộ được tâm thì lập tức thành Phật không phải cầu tìm khó nhọc ở bên ngoài vậy" (Thiền Tông Chỉ Nam Tự).

Đoạn vấn đáp trên đây lời nói tự sự chính xác thành khẩn, không cho phép ta nghi ngờ không phải Trần Thái Tông đã bỏ ngôi để vào núi cầu Phật tìm giải thoát cho nỗi lòng ưu phiền bi đát. Sử gia Ngô thời Sỹ đã nhận thức:

"Vua Thái-Tông... làm ra sách" Khoá Hư Lục "mến cảnh sơn lâm, coi sống chết như như nhau tuy ý tứ gần với đạo Phật không tịch mà chí thì rộng xa cao siêu cho nên bỏ ngôi báu như trút dép nát vậy". (Việt Sử Tiêu Án Q.III).

Thái độ hỷ xả của nhà vua thực là tinh túy của tôn giáo thực hiện.

Vì Tể tưởng Thủ-Đô và toàn thể quần thần yêu cầu và nhất là lời khuyên chính đáng của Quốc Sư: "Phàm làm đấng nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn và tâm thiên hạ làm tâm. Nay thiên hạ muốn đón nhà vua về cung, nhà vua không về sao được?".

Và Trần Thái Tông phải trở về gượng gắng lên ngôi. Và ngài đã giác ngộ khi đọc kinh "Kim Cương" đến câu: "Ưng Vô Sở trụ nhi sinh kỳ tâm" (Nên có cái tâm không chấp vào đâu cả). Chính với cái tâm minh ấy mà nhà vua đã nhất quán tam giáo: "Vị minh nhân vọng phân tâm giáo, liễu đắc thể đồng ngộ nhất tâm!" (Chưa giác ngộ thì lầm phân biệt có ba giáo lý, hiểu thấu triệt thì cùng giác ngộ chỉ có một tâm linh).

Không những Thái-Tông có tinh thần khai phóng. Ngài còn khoan nhân đại độ, đã khoan thứ cho Trần Liễu nổi loạn, anh em ôm nhau khóc trước mũi kiếm của Trần Thủ Độ, nên về sau Dụ-Tông có thơ ca tụng:

Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông

Đường xưng Trinh-Quán, ngã Nguyên Phong

Kiến Thành chu tử, An Sinh tại

Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng

(Nhà Đường, nước Việt mở nước có hai vua Thái Tông, Nhà Đường xưng là Trinh-Quán, Ta xưng là Nguyên-Phong; Kiến-Thành, em Thế-Dân bị anh giết còn An-Sinh là anh Thái-Tông vẫn sống và được phong ấp. Tuy, đều Thái-Tông mở nước nhưng không cùng có nhân đức).

Sau khi trình bày "Vietnamese Humanism (ở Đại-Học Hawai năm 1957, có đăng ở Hawai University Press, October 1959, January 1960) tôi có đưa cho D.T. SUZUKI danh tiếng về "Zen" Nhật-Bản, ông ta đã hết sức ca tụng bộ sách "Khóa Hư" và tác giả của nó nhất lại là một nhà vua.

Sách "KHÓA HƯ" được Hòa-Thượng Thanh-Kiểm chùa Vĩnh-Nghiệm dịch lại đầy đủ, chú giải minh bạch, đáng là bộ kinh Phật-Giáo Việt-Nam hiếm hoi của Tông-giáo thực hiện, một tập đại-thành triết học tôn giáo thế giới.

Nay tựa

NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Saigon, ngày 4 tháng 6 năm 1992

---o0o---

Vi tính: Việt Dũng

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2013(Xem: 9103)
Hôm nay, tôi sẽ nói đề tài: "Chỗ gặp gỡ và chỗ không gặp gỡ giữa Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông". Phật giáo Việt Nam chúng ta có chia ra nhiều tông phái, nhưng xét kỹ thì có ba tông chính: Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông
26/07/2013(Xem: 10165)
Niệm Phật
25/07/2013(Xem: 6080)
Cứu cánh trí tuệ Phật Giáo là chứng đắc Tánh Không của vạn pháp. Trong kinh điển, Tánh Không là pháp giới Tánh, cũng chính là Phật Tánh. Phật tánh không ngằn mé, không hạn lượng, không đối đãi giữa sanh và tử, giữa có và không... Phật tánh kết tập hưng khởi từ sức trí tuệ vô lượng và tâm đại bi vô biên. Đức Phật thường dạy, Bồ Tát đạo nương Phật tánh làm con đường, nương trí huệ Bát Nhã làm thuyền độ sanh. Nhờ nương sức từ bi của chư Phật, Bồ Tát quán sát thế gian như hư huyễn, không thật có sinh diệt, như hoa đốm giữa hư không. Bồ Tát tinh tấn phổ độ chúng sanh không mệt mỏi, không nhàm lìa, nhưng không thấy mình vĩ đại, không thấy chúng sanh đáng tội nghiệp, không thấy mình cao cả, đáng làm chỗ cho chúng sanh cúng dường… Vì dù có chấp, có thấy đến thế nào chăng nữa, thì điểm cuối cùng trên đạo lộ giải thoát vẫn phải là “tâm, Phật, chúng sanh - ba thứ ấy đều không sai biệt”.
02/07/2013(Xem: 4645)
Như một kết quả của việc thực hiện lời dạy của Đạo sư và phụng sự ngài, mọi ước muốn nhất thời và tối thượng của ta được đáp ứng nhanh chóng. Việc hiến mình một cách đúng đắn cho Đạo sư củng cố cội gốc của mọi hạnh phúc trong tương lai, kể cả sự giác ngộ. Mọi sự - những công việc đối với bản thân và chúng sinh – đều thành công và chúng ta nhanh chóng đạt được giác ngộ.
22/06/2013(Xem: 7715)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
13/05/2013(Xem: 4992)
Mỗi con người mỗi ý thức, mỗi ý thức mỗi một hành động, mỗi một hành động tạo nên hạnh phúc hay khổ đau. Hành tinh xanh thế giới này trong quỹ đạo thái dương hệ thuộc giải ngân hàn Milkyway hiện có hơn sáu tỉ người, . . .
28/04/2013(Xem: 30153)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
23/04/2013(Xem: 25601)
H.T.Thích Mãn Giác, sanh năm Kỷ Tỵ tại Cố Đố Huế. Nguyên quán Làng Phương Lang, Quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia nhập đạo năm 11 tuổi. Thọ Đại Giới năm 1948 cùng một lần với Hòa Thượng Thiện Siêu, cố Hòa Thượng Thiện Minh, cố Hòa Thượng Thiên Ân…
23/04/2013(Xem: 16911)
Phần nhiều người ta hay lo lắng những việc về quá khứ và tương lai, chính đó là nguyên nhân gây ra cho họ đời sống vô cùng đau khổ và rối loạn tâm tư. Những việc gì ở quá khứ thì nó đã qua rồi; còn những gì ở tương lai thì nó chưa đến. Như vậy, tại sao họ phải quá lo lắng những gì liên quan đến quá khứ và tương lai? Thế thì, những gì có thể tồn tại ở đời này, họ cần phải quan tâm đến và sống với nó.
22/04/2013(Xem: 5948)
Cội gốc sanh tử tức là các thứ vọng tưởng hàng ngày của chúng ta, các thứ nghiệp phiền não thương ghét, tham lam, giận hờn của chúng ta, nếu còn một mảy may không dứt thì tức là còn gốc rễ sanh tử. Nay muốn tham thiền đốn ngộ liễu thoát sanh tử, hãy tự suy nghĩ xem có thể một niệm dứt ngay phiền não của nhiều kiếp như chặt đứt một cuộn chỉ hay chăng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567