Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

XVI. Lời phó-chúc

17/05/201313:15(Xem: 9819)
XVI. Lời phó-chúc

Kinh Đại Bát Niết Bàn [1]

XVI. Lời phó-chúc

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Đông Tấn, Sa Môn Thích Pháp Hiển

Bấy giờ, đức Như-Lai bảo ông A-Nan: “Ông đừng thấy Tôi nhập Niết-Bàn, cho là chính-pháp của Tôi ở đây mất hẳn. - Sao vậy? - Xưa Tôi vì các vị Tỳ-Khưu chế ra giới Ba-la-đề-mộc-soa [26] cùng nói ra nhiều diệu-pháp khác, những giới-pháp ấy tức là Đại-Sư của các vị và cũng như Tôi còn ở đời không khác!”
Ông A-Nan! Sau khi Tôi nhập Niết-Bàn, các vị Tỳ-Khưu đều phải theo thứ-tự, lớn, nhỏ, cung-kính lẫn nhau; không được gọi tên họ, mà đều gọi tên tự; cùng xem-xét lẫn nhau, đừng để trong chúng có sự phạm đại-giới; không nên soi-bói lỗi nhỏ của người. Xa-Nặc (Chandaka) Tỳ-Khưu [27] cần phải phạt nặng!
Ông A-Nan hỏi Phật: “Lạy đức Thế-Tôn! Thế nào là phạt nặng?”
Đức Phật bảo: “Ông A-Nan! Phạt nặng là hết thảy Tỳ-Khưu đừng cùng ông ấy nói chuyện!” Ông A-Nan bạch Phật: “Chúng con xin vâng làm theo lời dạy của Thế-Tôn!”
Khi ấy đức Thế-Tôn bảo các vị Tỳ-Khưu: “Nay các ông nếu còn ngờ-vực gì, mặc ý các ông thỉnh-vấn, đừng để sau khi Tôi nhập-diệt, hối-hận rằng Như-Lai gần nhập Niết-Bàn trong rừng Sa-la, lúc đó ta không dám đến hỏi để Như-Lai giải-quyết cho, đến nỗi ngày nay tâm-tình ta có chỗ trệ-trọc! Tuy nay thân thể Tôi có bệnh, nhưng, còn có thể vì các ông giải-thích những điều ngờ-vực. Nếu các ông muốn vâng giữ chính-pháp, lợi-ích Nhân, Thiên, sau khi Tôi nhập Niết-Bàn, nay các ông nên hỏi nhanh lên, Tôi giải-quyết cho chỗ còn ngờ-vực của các ông!”
Đức Thế-Tôn bảo như thế đến ba lần, các vị Tỳ-Khưu vẫn im-lặng, không có ai xin Ngài quyết-nghi gì cả. Lúc đó, ông A-Nan liền bạch Phật rằng: “Lạ thay, lạy đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn dạy đến ba lần như thế, mà trong chúng này, không có ai ngờ gì cả!”
Đức Phật dạy: “Đúng như thế, đúng như thế! Ông A-Nan! Nay trong chúng này, có năm trăm vị Tỳ-Khưu chưa đắc-đạo, sau khi Tôi nhập Niết-Bàn, trong đời vị-lai các vị ấy, lậu-nghiệp sẽ được hết và chính ngay ông cũng là người ở trong số ấy!”
Bấy giờ đức Thế-Tôn bảo các vị Tỳ-Khưu: “Các vị nếu thân, khẩu, ý Tôi bỗng dưng có xúc-phạm gì, các vị nên bảo Tôi!”
Các vị Tỳ-Khưu nghe đức Phật nói lời ấy buồn rầu sa lệ, bạch Phật rằng: “Như-Lai há còn có lỗi nhỏ-nhặt về thân, khẩu, ý?”
Đức Như-Lai liền nói kệ:
Các hành là vô-thường,
Là pháp sinh-diệt;
Diệt sinh-diệt rồi,
Tịch-diệt làm vui. [28]
Đức Như-Lai nói bài kệ ấy rồi, Ngài bảo các vị Tỳ-Khưu: “Các vị nên biết: hết thảy mọi hành-tướng, đều là vô-thường; thân Tôi nay tuy là thể kim-cương, nhưng cũng không khỏi lẽ vô-thường biến-thiên. Trong nẻo sinh-tử, rất đáng sợ-hãi, các vị nên siêng làm hạnh tinh-tiến, cần mau ra khỏi hố lửa sinh-tử này, thế là lời dạy cuối cùng của Tôi!”
“Thời nhập Niết-Bàn của Tôi đã đến!”
Các vị Tỳ-Khưu cùng các Thiên, Nhân khác nghe đức Phật dạy lời ấy, thương-xót, kêu-khóc, buồn-bã ngất lăn ra đất.
Đức Như-Lai liền bảo tất cả mọi người: “Các vị không nên sinh ra sự buồn-rầu ấy, tính-tướng của mọi sự-vật, đều như thế cả!”

TOÁT-YẾU


Đức Phật bảo ông A-Nan: “Đừng thấy Tôi nhập Niết-Bàn, cho là chính-pháp của Tôi cũng mất hẳn. Xưa kia Tôi chế ra giới-luật, nói diệu-pháp, thời những giới-pháp đó là Thầy của các vị. Sau khi Tôi nhập-diệt, các vị Tỳ-Khưu đều phải theo thứ tự, lớn, nhỏ, cung-kính lẫn nhau; xem-xét lẫn nhau, để tránh sự phạm đại-giới. Nhưng, không nên soi-bói lỗi nhỏ của người!”
Đức Thế-Tôn bảo các vị Tỳ-Khưu: “Giờ đây các vị còn ngờ-vực gì, cứ hỏi, chả sau lại phàn-nàn!” Đức Phật hỏi đến ba lần, trong chúng không ai hỏi gì cả.
Đức Phật lại bảo các vị Tỳ-Khưu: “Tôi có lỗi gì về thân, khẩu, ý các vị cho tôi biết!” Các vị Tỳ-Khưu buồn-rầu, sa-lệ bạch: “Đức Thế-Tôn còn có lỗi-lầm gì nữa!”
Ngài dạy tiếp: “Các vị nên biết: hết thảy mọi hành-tướng đều là vô-thường, thân Tôi nay tuy là thể kim-cương, nhưng, cũng không khỏi lẽ vô-thường biến-thiên. Trong nẻo sinh-tử đáng sợ-hãi, các vị nên siêng làm hạnh tinh-tiến, cần mau ra khỏi hố lửa sinh-tử này, thế là lời dạy cuối cùng của Tôi!”
“Thôi, thời nhập Niết-Bàn của Tôi đã đến!”
Các vị Tỳ-Khưu buồn, Ngài dạy: “Các vị không nên buồn-rầu nữa, tính-tướng của mọi sự-vật đều như thế!”



Chú thích


[26] Ba-la-đề-mộc-soa (Pratimoksa): Tàu dịch là: “Biệt-giải-thoát”, có nghĩa là người thụ giới-luật, đều đạt tới chỗ giải-thoát những lỗi về thân, khẩu, nhưng trong ấy có sự giản-biệt về định-cộng-giới (luật-nghi do tĩnh-lự sinh) và về đạo-cộng-giới (tức vộ-lậu luật-nghi).
[27] Vị này trước đánh ngựa cho Phật đi xuất-gia, sau đi tu hay ác-khẩu, vào bè với lục-quần Tỳ-Khưu, nhưng, Phật nhập-diệt rồi, cũng được chứng quả.
[28] Đại-ý đức Phật nói: Sự-vật do giả-tạo mà thành, đều thuộc về vô-thường, vì nó là thứ có sinh ra, có diệt đi. Nếu diệt được cái sinh-diệt ấy rồi, thì “tịch-diệt giải-thoát” là vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/03/2012(Xem: 1048)
Thuốc không quý - tiện, thuốc trị lành bịnh là thuốc hay. Pháp không hơn - kém, pháp khế hợp căn cơ là pháp diệu. Thuở xưa, căn tánh con người thù thắng, tri thức như rừng, tùy ý tu một pháp đều có thể chứng đạo. Người đời nay, căn tánh kém cỏi, tri thức hiếm hoi, nếu bỏ Tịnh Độ thì chẳng nhờ vào đâu để được giải thoát.
16/12/2011(Xem: 611)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha: Úm Vĩ bổ ra nghiệt bệ Vĩ bổ ra vĩ ma lệ nhạ dã nghiệt bệ Phạ nhựt-ra nhập-phạ lã nghiệt bệ Nga để nga hạ ninh Nga nga nẵng vĩ thú đạt ninh. Úm Tát phạ bá bả vĩ thú đạt ninh.
01/10/2011(Xem: 629)
Bấy giờ, đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai ở nơi Đại Tam-ma-địa môn tịnh xá cùng với các bậc đại Tỳ-khưu gồm tám vạn chín ngàn người đều câu hội đầy đủ, toàn là bậc đại A-la-hán, huệ thiện đầy đủ, việc cần làm đã làm xong, các vị ấy là: Thần lực Trí Biện Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thần Thông Tự Tại Vương Bồ-tát, Tĩnh Quang Vô Cấu Đà La Ni Bồ-tát, Đại Lực Phổ Văn Bồ-tát, Đại Trang Nghiêm Lực Bồ-tát, Vô Lượng Quang Bồ-tát, Huệ Thiện Huệ Phổ Quang Vương Bồ-tát. Những vị Đại Bồ-tát và đại chúng Thanh văn như vậy đi đến chỗ Phật, bạch rằng: "Tại Vô Lượng Thọ quốc có chín phẩm Tịnh Thức Tam-ma-địa. Đây tức là cảnh giới của chư Phật, nơi Như Lai đang an ở.
22/08/2011(Xem: 713)
Nẵng mồ ra đát-nẵng Ra thấp-mi tán nại-ra bát-ra để mạn ni đá vĩ nễ-diễm đế nhạ cụ thế thấp-phạ ra la nhạ dã Đát tha nga đá dã ra-hạ đế Tam miệu tam một đà dã Đát nễ-dã tha Ra đát-nễ ra đát-nễ ra đát nẵng kiết ra ni ra đát-nẵng Bát-ra để mạn nị đế Ra đát-nẵng tam bà ni Ra đát-nẵng bát-ra tỉ Ra đát-nỗ nột nga đế Ta-phạ hạ.
19/07/2011(Xem: 654)
Con nay quy mạng Phật, Bồ-tát Diễn bày Tương Ưng Đại Giáo Vương Lược thuật Quán Âm Bồ-tát nghi Nay làm công việc lợi quần sanh
10/07/2011(Xem: 14071)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm; thắp đuốc huệ soi đường tối, rưới mưa hoa rửa bụi trần. Song lẽ Phật thì vẫn biết chúng sanh có kẻ thượng căn người hạ trí, chỗ thấy mau chậm chẳng đồng, nên tùy cơ duyên mà hóa độ, bởi vậy giáo pháp mới có chỗ quyền mà cũng có chỗ thật. Nguyên kinh Kim Cang này, Phật vì Trưởng lão Tu Bồ Đề và các bực đại căn thượng trí, nên đem giáo lý huyền diệu tỏ bày rốt ráo, chỉ cốt tự mình dụng lấy công phu, khai giác lấy mình "Minh Tâm Kiến Tánh".
20/05/2011(Xem: 606)
Sự sinh ra cao quý, tự do và thuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phí mà sử dụng nó một cách có ý nghĩa.
11/02/2011(Xem: 8039)
Hiện nay, thời khóa mỗi ngày của tôi nhất định phải có là: sáng sớm thức dậy tụng phẩm Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang, bài kệ phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A Di Đà” rồi hoàn kinh niệm Phật. Nếu tụng ra tiếng thì hơn 2 tiếng đồng hồ, nếu tụng thầm thì trên dưới một tiếng rưỡi. Năm nay tôi đã 94 tuổi nên chỉ thực hiện thời khóa bằng cách tụng thầm mà thôi, chứ tụng ra tiếng thì không nỗi nữa rồi. Sở dĩ tôi nói kỹ như vậy để chúng ta biết rõ cách tu tập của mình là phải có sự liên tục hằng ngày. Không nên lúc có, lúc không. Tụng kinh niệm Phật ngoài mục đích chính yếu là vãng sanh Cực Lạc ra, còn có tác dụng hàng phục những phiền não nghiệp chướng, khiến cho những thiện căn công đức được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy, tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần trên con đường Hiền Thánh giải thoát.
10/11/2010(Xem: 6948)
Đức phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ. Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: "Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì".Khi ấy tại cõi Tản đề lam thế giới có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông thắng thần châu, hai là Nam thiệm bộ châu, ba là Tây ngưu hóa châu, và bốn là Bắc cu lô châu, tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương, đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ, nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẳn lòng ái kính.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567