Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Nói Kinh Giải Hạ (1)

05/04/201314:23(Xem: 10059)
Phật Nói Kinh Giải Hạ (1)

Phật Nói Kinh Giải Hạ (1)

Việt dịch: Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Ngài Pháp Hiến

Chính tôi được nghe một thời kia đức Phật ở Ca-Lan-Đà trúc-lâm (Kàranda- venùvana) tinh-xá thuộc thành Vương-xá, cùng với năm trăm chúng Bật-Sô (Tỳ Khưu). Các vị Bật-Sô này đều là bậc A-La-Hán, mọi lậu-nghiệp đã hết (2) chỗ tạo-tác đã xong (3), trừ được mọi gánh nặng (4), việc lợi mình đã được, hết mọi sự ràng buộc trong các cõi (5), tâm thiện giải-thoát. Duy có một vị Bật-Sô hiện ở Học-vị (6), đã được đức Thế-Tôn thụ-ký (7), thấy pháp đắc pháp sẽ chứng quả-vị viên-mãn.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn an-cư đã đủ, đương thời giải Hạ, ngày rằm (15) Ngài cùng chúng Bật-Sô trải tòa mà ngồi Hội-chúng ngồi rồi, lúc ấy đức Thế-Tôn mới bảo chúng Bật-Sô rằng: "Ta nay đã được Phạm-hạnh (8) tịch-tĩnh, thân tối-hậu (9) này, dùng thuốc Vô-thượng, để dứt trừ mọi bệnh, những đệ-tử ta, hiểu biết mọi pháp đều thông-đạt rồi, cho nên ta nay nói pháp giải Hạ. Các chúng Bật-Sô! Ta ở trong Hạ, có chi về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý, các vị khả-nhẫn(10)."
Khi ấy, Tôn-giả: Xá-Lỵ-Phất nghe đức Phật nói rồi từ tòa ngồi của mình đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, chắp tay hướng lên Phật, mà bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế-Tôn, như Ngài vừa nói: Ta nay đã được Phạm-hạnh tịch-tĩnh, cho đến nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý..., khả nhẫn, riêng chúng con biết nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý của đức Phật không có những lỗi-lầm, hàng Bật-Sô chúng con nay không dám khả-nhẫn. Với ý ấy là sao? Đối với đức Phật Thế-Tôn của chúng con: những người khó điều phục, Ngài điều-phục được, những người không ngăn cấm được, Ngài khéo ngăn cấm được, những người không được an-ổn, Ngài khéo an-ủi họ, những người chưa được tịch-tĩnh, Ngài làm cho họ được tịch-tĩnh. Đức Như-Lai tỏ rõ chính-đạo, nói rõ chính-đạo, khai-thị chính-đạo, cho đến chúng con những người ưa đạo Bồ-đề của Thanh-văn, đức Phật cũng vì chúng con mà nói rõ, khiến những Thanh-văn chúng con như lý tu-hành, chứng được Thánh-quả. Thế nên, chúng con đối với thân, khẩu, ý-pháp của đức Phật Thế-Tôn, chúng con không dám "khả-nhẫn".
Bấy giờ Tôn-giả Xá-Lỵ-Phất bạch Phật rằng: "Lạy đức Thế-Tôn, con nay đối trước Phật, nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý của con, có gì bất-thiện, cầu Phật khả nhẫn cho".
Đức Phật bảo ông Xá-Lỵ-Phất: Ông nay có gì về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý, ta sẽ nhẫn-khả cho. Với ý ấy là sao? - Ông Xá-Lỵ-Phất! Ông là người giữ giới đầy-đủ, nghe nhiều, ít muốn, biết đủ, dứt mọi phiền-não phát tâm tinh-tiến nhiều, an-trụ chính-niệm và đủ những trí-tuệ, trí-tuệ bình-đẳng tiếp-dẫn, trí-tuệ nghe hiểu, trí-tuệ mẫn-tiệp, trí-tuệ lợi-ích, trí-tuệ xuất-ly, trí-tuệ hiểu suốt, trí-tuệ thanh-tịnh rộng lớn, trí-tuệ sâu-xa, trí-tuệ không gì bằng cùng đầy-đủ trí-tuệ lớn-lao quý-báu; ai chưa thấy khiến họ thấy, ai chưa điều-phục khiến họ được điều-phục, ai chưa nghe pháp, ông liền vì họ thuyết pháp, ai đầy lòng giận tức, ông liền làm cho họ hoan-hỷ và ông nay vì bốn chúng thuyết pháp không chán. Ví như con vua Kim-Luân, chịu phép quán-đỉnh (11), nối dõi ngôi vua, y pháp mà trị. Ông Xá-Lỵ-Phất cũng lại như thế. Ông là đệ-tử ta, chịu pháp quán đỉnh, nối ngôi Pháp-vương, và cũng như ta chuyển vô-thượng pháp-luân, cũng như ta lậu-nghiệp hết chứng được giải thoát. Thế nên, ông Xá-Lỵ-Phất! ông có ba nghiệp, đã tự bày tỏ, nay ta nhẫn-khả cho.
Khi ấy, ông Xá-Lỵ-Phất, nghe Phật nhẫn-khả cho rồi, đầu thành lễ tạ, lại bạch Phật rằng: Lạy đức Thế-Tôn, con cùng năm trăm chúng Bật-Sô, có gì về ba nghiệp đức Phật đã nhẫn-khả cho rồi, nhưng con nay còn có chút ngờ-vực, nên lại khải-thỉnh, kính mong đức Thế-Tôn vì con mà phân-biệt cho. Lạy đức Thế-Tôn, trong năm trăm vị Bật-Sô này, bao nhiêu vị Bật-Sô được ba phép minh (12) bao nhiêu vị Bật-Sô được Câu-giải-thoát (13), bao nhiêu vị Bật-Sô được Tuệ-giải-thoát(14)?
Đức Phật bảo ông Xá-Lỵ-Phất: Trong năm trăm vị Bật-Sô này, chín mươi vị Bật-Sô được ba phép minh, chín mươi vị Bật-Sô được Câu-giải-thoát và ngoài ra các vị Bật-Sô kia đều được Tuệ-giải-thoát. Ông Xá-Lỵ-Phất! Như thế các vị Bật-Sô, hết mọi phiền-não, đều trụ vào nơi chân-thực.
Khi ấy, trong hội có một vị Tôn-giả tên là Phạ-Nghi-Xá, khởi lên mối nghĩ thế này: "Ta nay đối trước đức Phật cùng chúng Bật-Sô nên làm bài kệ giải Hạ bày tỏ sự tán-thán của ta". Tôn-giả Phạ-Nghi-Xá, sau khi nghĩ thế rồi, liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu quỳ xuống đất, chắp tay cung-kính, nghiêm-chỉnh, nói bài kệ rằng:
Ngày rằm, ngày giải Hạ,
Thanh-tịnh hành luật-nghi;
Năm trăm chúng Bật-Sô,
Dứt sạch dây phiền-não.
Đều hết mọi lậu-pháp,
Mà chứng Thánh-quả-vị;
Trong lặng, ngoài khéo trị.
Giải-thoát mà ly "hữu".
Hết bờ cõi sinh-tử,
Chỗ tạo-tác đã xong;
Vô-minh, ngã-mạn, kết...
Dứt sạch không còn nữa.
Ngã Phật: tối thượng-tôn,
Dứt mọi pháp tà-niệm;
Cùng dứt pháp hữu-lậu
Khéo trừ ái bệnh khổ.
Ái diệt không phục-sinh,
Lìa "thủ" (chấp): bậc (đại) Sư-tử;
Hết mọi sự sợ hãi,
Duy, Phật Thế-Tôn ta.
Ví như vua Kim-Luân,
Nghìn con thường vây-quanh;
Khéo trị bốn thiên-hạ,
Điều-phục khắp bốn bể.
Lại như đánh thắng trận,
Là tối thượng Điều-ngự;
Thanh-văn được Tam-minh
Pháp giải-thoát... cũng thế.
Phật-tử đều như thế.
Chứng, diệt không phục-sinh;
Ta nay lễ Pháp-vương,
Vô-thượng Đại-nhật-tôn.
Sau khi Bật-Sô: Phạ-Nghi-Xá nói bài kệ rồi, trở về bản-tọa.
Bấy giờ, Tôn-giả Xá-Lỵ-Phất cùng các vị Bật-Sô, nghe đức Phật tuyên-thuyết pháp giải Hạ, lòng sinh sung-sướng vui mừng hớn-hở, tín thụ phụng-hành.



Chú thích:


(1) Kinh này là cuốn kinh số 63 trong Đại-Tạng-kinh. Giải Hạ có nghĩa là trong 3 tháng an-cư thuộc mùa Hạ đã được viên-mãn làm lễ tự-tứ rồi giải-tán.
(2) Lậu-nghiệp đã hết: Nghĩa là đã hết những hành-động mê-vọng làm lọt mất những công-đức lành.
(3) Đã được ba nghiệp thanh-tịnh, không còn tạo-tác gì nữa.
(4) Giũ sạch phiền-não.
(5) Không còn bị sinh-tử luân-hồi trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô-sắc nữa.
(6) Học-vị: Học có hai: Hữu-học và vô-học. Người mà chân-lý cứu-cánh, vọng-hoặc diệt hết, không phải tu học gì nữa gọi là "vô học". Người còn đang ở địa-vị nghiên-cứu chân-lý để dứt hẳn vọng-hoặc, gọi là "hữu-học". Tiểu-thừa: từ quả thứ nhất đến quả thứ ba là "hữu-học": A-La-Hán là "Vô học". Đại-thừa: Thập-địa Bồ-Tát là "Hữu-học", Phật là "vô-học".
(7) Thụ-ký: Đức Phật đối với chúng-sinh phát tâm. Ngài trao cho sự ghi nhớ riêng biệt về việc thành Phật trong đời mai sau của chúng-sinh ấy.
(8) Phạm-hạnh: Hạnh thanh-tịnh.
(9) Tối hậu-thân: Sinh trong Dục-giới, do thân này thành đạo. Thân này là thân sau cùng của Bồ-Tát trụ nơi sinh-tử.
(10) Khả nhẫn: có nghĩa là nhận xét, sửa chữa và vui lòng xóa-bỏ.
(11) Quán-đỉnh (Abhisecani) Theo phong-tục Ấn-độ, mỗi khi ngôi Quốc-vương tức vị lấy nước bốn bể lớn về rưới lên đầu, biểu ý chúc tụng.
(12) Ba phép minh: 1- Túc-mệnh. 2- Thiên-Nhãn. 3- Lậu-tận.
(13) Câu-giải-thoát: Đây là một pháp vô học trong 9 pháp vô học của bậc La-Hán. Vị La-Hán lìa phiền-não-chướng cùng lìa các chướng của Thiền-định đến chỗ chí cực: Diệt-tận-định gọi là Câu-giải-thoát.
(14) Tuệ-giải-thoát: Vị La-Hán có tính-phận ham-ngộ đạo-lý, không ham sự-dụng, chỉ giải-thoát được chướng-ngại của trí-tuệ mà thôi, nên gọi là Tuệ-giải-thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 17015)
Đại sư tên Huệ Năng, thân phụ họ Lư, húy Hành Thao, thân mẫu họ Lý. Đời vua Đường Vũ Đức năm thứ 3 tháng 9 ở tân Châu, bà Lý Thị nằm mộng thấy trước sân hoa trắng đua nở, có đôi chim nhạn trắng bay, hương lạ tỏa đầy nhà, khi tỉnh dạy thì thụ thai. Bà thanh khiết trai giới, hoài thai sáu năm Sư mới ra đời. Ấy là năm Trinh Quán thứ 12 đời Đường Thái Tông, nhằm năm Mậu Tuất (638DL) ngày mồng 8 tháng 2 giờ Tý.
08/04/2013(Xem: 15563)
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong điện quan Thừa Tướng, thuộc phía Đông thành Xá-Vệ. Một hôm mẹ quan Thừa Tướng ấy tên là Duy-Da; sáng sớm dậy, bà tắm gội, mặc áo mầu, rồi cùng những người con dâu đi đến chốn Phật. Đến nơi, cùng nhau cúi đầu lễ sát chân Phật. Lễ xong, tất cả đều ngồi về một bên.
08/04/2013(Xem: 14263)
“Bát Thức Quy Củ Tụng” là một tác phẩm thuộc bộ môn Duy Thức do Ngài Huyền Trang đời Đường biên soạn. Nguyên tác vốn rất dài, khó nhớ, khó thuộc, vì vậy Ngài Khuy Cơ, đệ tử của Ngài Huyền Trang được phép Sư Phụ, đã toát yếu tác phẩm trên thành 41 câu tụng, giúp người tu học Phật được dễ dàng hơn trong việc đọc tụng hằng ngày.
08/04/2013(Xem: 17913)
Việc tự tứ và trai tăng trong ngày Vu lan, và qua đó mà báo hiếu cha mẹ, thì không cần phải nói đến nữa. Điều đáng nói là các chùa nên tổ chức hiệp kỵ cho Phật tử trong ngày Vu lan, sau khi tự tứ và trai tăng. Ngày nay kỵ giỗ của mỗi nhà cũng không thể còn như xưa
08/04/2013(Xem: 6130)
Trong việc học hỏi Phật Pháp, điều căn bản cần phải biết các đặc tánh của tâm và pháp như thế nào mới có thể tìm hiểu thêm pháp học và pháp hành Phật đạo. Kinh Giáo Giới Nandaka và Kinh Giáo Giới Channa đã nói lên hai đặc tánh ấy.
08/04/2013(Xem: 7048)
Quan Thế Âm là danh hiệu của một vị Bồ Tát. Quán Thế Âm dịch nghĩa của chữ Avalokitesvara (Trung Hoa phiên âm là A phạ lô chỉ đê thấp phạt la) của chữ Phạm (Ấn Độ) và có nghĩa là vị Bồ Tát quán sát tiêng kêu cầu của chúng sinh trong thế gian, mà độ cho họ được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 9522)
Điều mình không ưa chớ nên trách người. Anh hãy là ngọn đuốc và nơi nương náu cho chính mình anh. Anh đừng nên phó thác vào chốn dung thân nào khác. Muốn bình thiên hạ, hãy bình tâm địa trước đã. Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất!
08/04/2013(Xem: 9183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Những người nên độ, Ngài đã độ xong. Ngài nghỉ ở giữa hai cây Sa-la và sắp nhập niết-bàn.
08/04/2013(Xem: 6038)
Chính tôi được nghe: một thời kia đức Thế-Tôn ở trong Trúc-lâm tinh-xá: Ca-Lan-Đa (Karanda-venùvana), thuộc Vương-Xá đại-thành. Bấy giờ, Ngài cùng rất nhiều vị Đại-Bồ-Tát, trụ bất-thoái-chuyển (2) chứng ngôi Thập-địa (3) và đã viên-mãn mười pháp Ba-La-Mật-Đa (4).
08/04/2013(Xem: 5708)
Một năm trọn, dịp kỷ-niệm Phật-Tổ thành-đạo năm ngoái (1956) tôi tâm-nguyện phiên-dịch và ấn-hành trọn năm những cuốn kinh mỏng, thông-thường, phổ-biến cho các hàng Phật-tử sơ-cơ. Hoàn-cảnh vô cùng khó-khăn, phức-tạp, chỉ một lòng nhẫn-nại, tin-tưởng nơi Tam-bảo gia-hộ, vừa trong kỳ kỷ-niệm Phật-Tổ thành-đạo năm nay (1957), 12 tập gồm 22 quyển và 4 phẩm nhỏ được ra đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567