Tưởng Niệm HT Thích Đỗng Minh
Lời thưa của người kết tập:
Những khi nhắc chuyện Chùa xưa, Mẹ thường kể “… Sau ngày Ông Ngoại bị liệt, Ôn Đỗng Minh hay thăm hỏi, và dặn các học trò thường xuyên lui tới săn sóc…” Tôi biết vỏn vẹn chỉ chừng ấy về Ôn, vậy đã là quá nhiều!
THÍCH TRÍ QUANG
TẤN TỤNG HÒA THƯỢNG
TÂN VIÊN TỊCH
THÍCH ĐỖNG MINH
Đỗng Minh tỳ kheo thiện qui chân tế
PHỤNG CÚNG CHÚNG TRUNG TÔN[1]
THIỆN THUẬN GIẢI THOÁT GIỚI[2]
BỊNH TỬ BẤT KHỔ THÂN[3]
THỊ THẮNG DỊ THỤC TƯỚNG[4]
TRÍ QUANG tì kheo tấn tụng
Tỳ kheo Đỗng Minh an tường về cõi Chân-tịnh
Kính cúng dường bậc Chúng trung tôn
Người đã trọn vẹn tùy thuận giới giải thoát
Cả bệnh hoạn và sự chết đều không làm khổ được thân tâm
Đó là tướng dị thục thù thắng
Tỳ kheo TRÍ QUANG kính tiến lời tụng
Hòa Thượng Thích Đỗng Minh vốn là môn hạ từng theo học kinh luận đại thừa với Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang. Nay Ngài đã “thiện qui chân tế”, lại được bậc Thầy của mình đem cả chân tình xưng tán, thật đáng coi là việc “vị tằng hữu” trên đời. Cao quí thay, thượng trí thầy trò! Thắng diệu thay, tấm gương tròn đầy trong sáng!
Vậy xin mạo muội diễn dịch bài tụng trên ra mấy vần lục bát như sau:
Cúng dường bậc Chúng trung tôn
Giới nghi nghiêm mật sạch không lỗi lầm
An nhiên bệnh tử tới gần
Thường tịch quang độ chân thân hiện bày
Miền Tây Gia-nã-đại,
ngày Đầu tháng Cuối năm 2005 (PL. 2549)
Cư sĩ Hạnh Cơ
________________________________
[1] “Chúng trung tôn” là bậc có giới đức cao tột, được tôn quí, kính trọng nhất trong đại chúng. Ở đây có ý nói, Hòa thượng Đỗng Minh là bậc đạo cao đức trọng hiếm có trên đời, được tất cả mọi người đều tôn quí.
[2] Chữ “thiện” trong câu chữ Hán có nghĩa là trọn vẹn, không có chút lỗi lầm, sơ sót nào. Từ “thuận giải thoát giới” trong câu chữ Hán là ý nghĩa của tiếng Phạn “ba-la-đề-mộc-xoa”, tức giới luật. Giới luật có công năng phòng hộ thân tâm, diệt trừ mọi phiền não, làm cho người tu hành giải thoát ba cõi. Chữ “thuận” tức là tùy thuận. Giới luật thuận theo quả giải thoát, cho nên nói là “tùy thuận giải thoát giới”, hay “thuận giải thoát giới”. Câu này nói lên cái thấy tinh tường của tác giả về Hòa thượng Đỗng Minh, và đó là lí do tại sao trong câu đầu tác giả đã xưng tụng Hòa thượng là bậc “Chúng trung tôn”.
[3] Hai tháng trước ngày viên tịch, Hòa thượng Đỗng Minh lâm trọng bệnh. Tuy thân bị bệnh (một chứng bệnh mà nếu là người thường thì đau đớn dằn vặt dữ dội) nhưng tâm Ngài vẫn an nhiên tự tại, đi đứng ngồi nằm thư thái, phong độ hoan hỉ thường xuyên. Biết trước giờ phút lâm chung sẽ đến nhanh chóng mà tâm không sợ sệt, không bị thế gian thường tình làm cho chướng ngại tuệ giác; cứ thế an tường, cho đến giây phút cuối cùng xả bỏ báo thân. Câu này tác giả đã nói lên sự thật về đạo phong cao cả của một bậc chứng đạt.
[4] Cái nhân khi đã chín muồi, kết trái, thì gọi là “dị thục”. Chữ “thắng” nghĩa là tốt đẹp vượt trội hơn hết. Trong thuật ngữ Phật học, chữ “thắng” thường được dùng để chỉ cho sự toàn thiện, toàn bích, trang nghiêm tốt đẹp vượt trội thế gian; ở đây được tác giả dùng để chỉ cho đạo phong toàn bích, cao vợi của Hòa thượng Đỗng Minh. Chữ “tướng” ở đây có thể chỉ cho cái thân tướng hữu hình (có thể trông thấy bằng nhục nhãn), mà cũng có thể chỉ cho cái thân tướng vô hình (chỉ có thể trông thấy bằng tuệ nhãn hay đạo nhãn) của một người. Hòa thượng Đỗng Minh đã gieo trồng thiện căn từ bao đời trước để đến đời này có được cái báo thân toàn thiện, kiêm đủ các đức tính bi trí dũng, một đạo phong cao vợi của bậc chân tu; đó quả thật là một “thắng dị thục tướng” hiếm thấy trên đời.