Như Hùng
1. ĐÔI MẮT BIẾT TU
2. NGHE MÀ KHÔNG NGHE
3. MÙI HƯƠNG GIẢI THOÁT
4. BỐN NGHIỆP THIỆN LÀNH CỦA MIỆNG
5. TU THÂN, NUÔI DƯỠNG NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC VÀ PHẨM HẠNH CAO QUÝ
6. Ý CĂN, ĐẦU MỐI CỦA THIỆN ÁC TỐT XẤU NGUỒN CƠN CỦA ĐAU KHỔ AN VUI
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
Trong tác phẩm Khóa Hư Lục, phần Sám Hối Sáu Căn là một phương pháp tu tập hành trì thiện pháp, vô cùng ý nghĩa đem lại nhiều lợi lạc thiết thực. Thiết thực ở chỗ chúng ta xử dụng sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) thường xuyên bất kể đêm ngày, nhưng phần nhiều chúng ta lại lạm dụng đàn áp khống chế, không để nó ở nguyên vị để hoàn thành chức năng, ta đòi hỏi tham lam xê dịch đẩy xô nó đến chỗ rã rời mỏi mệt, thân khổ tâm đau. Để mang lại sự lợi ích ta thấu hiểu nhận biết rõ ràng sự đi lại gây tạo làm nên của các căn, để từ đó chúng ta biết cách gìn giữ bảo vệ ngăn ngừa chế ngự, đừng để các căn phát sinh nhiễm ô đắm nhiễm, và quan trọng là chúng ta phát nguyện tu tập nuôi dưỡng những giá trị lợi lạc an ổn từ đó. Sáu căn là mầm mống và nguyên nhân và cũng là cửa ngõ tác tạo gây nên khiến ta mải miết chìm đắm trong thế giới thống khổ, đưa ta trôi lăn trong triền phược không biết lúc nào dừng. Nếu chúng ta khéo biết để nguyên vị các căn, như là chức năng tự nhiên vốn có của nó, không tạo cơ hội cho trần, thức nhảy vào gây rối tác động, không tạo sự phân hóa sai biệt biến chất, thì đó là điều vô cùng tuyệt diệu dẫn chúng ta đến với thiện lành cao đẹp. Nhưng khổ một nỗi lo một điều là ta đã không làm như thế, ta làm ngược lại đi ngược lại, ta dung dưỡng o bế các căn để nó tha hồ thỏa thích, tha hồ chạy nhảy gây nên tội lỗi bất thiện, để cho ý dẫn đầu chỉ huy gây rối phá hoại lũng đoạn xúi dục, tác yêu tác quái, toan tính bày mưu lập kế, liên tục quấy nhiễu. Sáu căn duyên với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sinh ra sáu thức (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý thức). Chẳng hạn như mắt, chức năng của mắt là trông thấy nhìn thấy sắc, hiện thể sự vật, đối tượng nhìn thấy, nhưng ta đâu có chịu để cho nó ở yên vị và chỉ dừng lại với sự thấy đó rồi thôi. Khi mắt duyên với trần phần nhiều trở nên biến chất hình thể tướng trạng, ý thức nổi lên sự phân biệt so sánh, trổi dậy vô vàn trạng huống tình huống tâm cảnh sai biệt, đam mê lôi cuốn nhiễm ô, đẹp xấu khen chê ưa thích ghét bỏ. Bày trò lôi kéo chiếm đoạt sở hữu, ngã sở ngã chấp pháp chấp, phiền não bất an đau khổ thi nhau trổi dậy. Như thế là ta đã tạo nghiệp tác nghiệp, tốt xấu, thiện ác, tất cả những gì mình gây tạo nó sẽ bám chặt theo ta như bóng với hình, ta phải gánh chịu nhận phần trách nhiệm.
Cho nên khi thực hiện pháp sám hối ta cần chí thành một dạ sám hối những ác nghiệp đã tạo từ vô lượng kiếp đến nay, và hứa là từ nay về sau sẽ từ bỏ không tạo ác nghiệp nữa. Chứ không có nghĩa vừa tạo ác lại vừa sám hối, sám xong lại không chịu hối, cứ thế tiếp tục tạo mùi gây mãi, cái vòng luẩn quẩn lập tới lập lui chẳng đâu là đâu, cái tội ta đã gây sẽ không bao giờ chuyển đổi. Khi đối trước Tam Bảo để sám hối không có nghĩa chư Phật, Bồ Tát ở đó chứng minh ghi sổ tội phước để rồi ban phước hay giáng họa. Ta rõ một điều là trong đạo Phật không có thần quyền, đức Phật ngài không có thẩm quyền đưa chúng ta lên Niết Bàn hay đày chúng ta xuống địa ngục. Đức Phật chỉ là bậc đạo sư bậc Thầy trí tuệ cao tột, đưa đường chỉ lối cho chúng ta, Ngài chỉ cho chúng ta thấy con đường nào dẫn đến an lạc giải thoát, đâu là nguyên nhân gây nên khổ đau phiền não, để ta tự mình đốt đuốc lên để đi tự mình chứng nghiệm, tự mình giải thoát. Còn đi hay ở đến được hay không và như thế nào thì đó là quyền của riêng ta, Đức Phật cũng không thể ra lệnh hay can dự vào việc làm của ta, cũng như Ngài không có quyền hạn gì trước nghiệp quả do ta gây tạo.
Vậy thì, bằng cách nào để phương pháp sám hối mang lại hiệu quả giúp ích một cách thiết thực? Chúng ta cần phải nỗ lực tinh cần, phủi sạch lau chùi bụi trần, đoạn trừ những nghiệp quả bất thiện, một lòng nhiếp tâm sám hối nguyền từ bỏ ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp, thề không tái phạm, quyết lòng gìn giữ giới pháp ta đã nhận lãnh, nuôi dưỡng tâm thiện tánh lành lòng từ bi trí tuệ luôn tỏa sáng. Trong truyền thống tu tập của Phật Giáo Việt Nam, khóa lễ Hồng Danh Sám Hối vào mỗi nửa tháng vào các ngày 14 và 30 hoặc 29 (tháng thiếu) âm lịch. Hiện nay hệ thống thiền Trúc Lâm, thời khóa buổi khuya đều trì tụng Sám Hối Sáu Căn của vua Trần Thái Tông biên soạn. Cho nên việc ta sám hối và dốc lòng sám hối là điều cần thiết, như pháp mà sám hối, không những chúng ta sám hối tội nghiệp mà mình đã gây tạo, chúng ta còn sám hối những khổ đau xấu ác tai hại mà chúng ta gây ra cho muôn loài chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, và nguyện từ nay đến cuối đời không tái phạm, thực hành hạnh từ bi nuôi dưỡng trí tuệ.
“Chúng con từ vô thỉ kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ bởi sáu căn lầm;
Không sám lỗi trước, khó tránh lỗi sau”.
Từ trước đến nay, trong chúng ta ai không gây nên tội nghiệp ác nghiệp, có điều là chúng ta không biết bao nhiêu ít nhiều, không nhớ hết đếm không xuể mà thôi. Phàm là con người, cử chân cất bước động niệm là đã gây nên nghiệp, chỉ là cố ý hay vô tình, tích cực hay tiêu cực thiện ác. Vua Trần Thái Tông từng nhắc nhở chúng ta “cử động vận hành đều là tội lỗi” ai trong chúng ta không cử động vận hành thân tâm, ai lại không gây tạo ác nghiệp dù ít dù nhiều? Nhìn những gì xảy ra ở hiện tại, phần nào ta có thể đoán biết những gây tạo trước đó của ta như thế nào, nghiệp quả ta đang cưu mang nặng hay nhẹ cũng đủ biết ta gieo trồng trước đó nhiều mỏng ra sao rồi vậy.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của ta đều luôn tạo nghiệp, khi nào ta biết cách tu tập chuyển hóa đổi thay, từ bất thiện nghiệp xấu ác trở thành thiện nghiệp tốt lành. Chỉ khi thiện nghiệp dâng cao mới đẩy bung ác nghiệp ra ngoài, khi điều thiện nổi lên mới đè bẹp cái ác không có dịp trỗi dậy, khi nào trong tâm ta chất đầy cái thiện thì sẽ không có dịp có cơ hội để cho cái bất thiện trú ngụ. Nó giống như khi ta xử dụng bàn cân để cân một vật gì đó, hể vật nào nặng hơn thì sẽ kéo xuống, vật gì nhẹ hơn sẽ nhô lên. Điều thiện việc ác trong ta cũng thế, cái nào nhiều dày sẽ lôi kéo cái ít hơn, cái nào nhẹ sẽ từ từ biến mất nhường chỗ cho cái nhiều nặng lấn tới. Tiến trình chuyển hóa hoán chuyển đơn giản và rõ ràng như vậy, nhưng chúng ta có làm chịu làm và làm được hay không và như thế nào lại là vấn đề của chúng ta. Không một ai đủ thẩm quyền gánh tội dùm ta, và giúp ta xóa sạch tội, và cũng chẳng một ai đủ năng lực chuyển tội dứt nghiệp cho ta cả, ngoài chính ta chủ nhân của hạnh phúc an lạc khổ đau niết bàn. Chỉ cần chúng ta tu tập sáu căn cho thật trọn vẹn đủ đầy, thì sẽ mang lại an lạc hạnh phúc đích thật cho mình.
Chúng ta tạm gọi có ba yếu tố quan trọng, để chúng ta tư duy nhận biết và thực tập, đó là nhận diện, quan sát và phát khởi. Nhận diện một cách tường tận bản chất như thật tánh tướng của các pháp, thấy rõ ngã ngã sở pháp chấp, nhận chân sự biến động của các căn. Nhận diện cội nguồn nguyên nhân trôi nổi đi lại của thân, khẩu, ý, thường xuyên duy trì sự thiện lành tỉnh thức trong từng sát na không để gián đoạn ngăn ngại. Khi nhận diện một cách liên tục thường xuyên cũng có nghĩa là ta đang sống trong sự tỉnh thức, là ta phát hiện để phong tỏa ngăn ngừa chế ngự các căn không để cho sự biến động chen vào gây rối. Không tạo cơ hội cho “tâm viên ý mã” lang thang nơi này chốn nọ, ta kịp thời dõi theo chận đứng sự tác hại lầm lạc của nó. Ta thấy rõ những hưng động khởi dậy, và chuyển hóa tức thì những si mê tăm tối trở nên thông tuệ sáng tỏ, hoán chuyển khổ đau phiền não thành niềm hoan hỷ lạc an.
Quan sát, tâm cảnh nội giới ngoại giới, sắc pháp tâm pháp tánh tướng một cách tinh tường thấu đáo, sự trỗi dậy đi lại lẩn khuất của các căn, không để cho não phiền bất an đau khổ lấn sân trú ngụ. Khi quan sát tinh tế rõ ràng, tính chất bản chất hiện tượng, những khởi động tương quan phổ cập, rõ biết đầu nguồn cuối đoạn sự vận hành tương tác, những phát khởi biến động từ đó trong đó. Một khi quan sát được vấn đề một cách rõ ràng minh bạch, thì ta mới đủ năng lực tuệ giác để thay đổi làm mới làm một cách trọn vẹn. Ta dõi theo không tạo cơ hội cho tham, sân, si có dịp sai khiến, đẩy xô ta đến với khổ đau phiền não. Ta không thể cứ mãi phó mặt cho những nguy hại lầm lạc bế tắc thấm sâu chồng chất đọng lại. Ta không thể nhập nhằng lẫn lộn cái này với cái kia trong sự đánh đồng suy nghĩ, không tự quán chiếu tuệ tri tìm phương tháo gỡ thoát ra.
Phát khởi dưỡng nuôi lòng từ bi yêu thương trí tuệ cao cả, vận hành truyền tải tăng trưởng tâm từ lòng bi mẫn trí tuệ không có biên cương giới hạn, bao trùm rộng khắp đến với muôn loài chúng sanh. Những điều này giúp cho ta thường xuyên biết gạn lọc dứt bỏ rời xa những thói hư tật xấu, những bất thiện xấu ác vốn đã tích chứa trong ta từ trước đến nay. Khi chúng ta phát khởi lòng từ bi tăng trưởng trí tuệ cũng là sự thế vào lấp đầy và đẩy xa những tăm tối bất thiện xấu ác. Đó cũng là sự tinh cần tích cực trong việc làm lớn mạnh trưởng dưỡng lòng yêu thương trí tuệ cao cả đem lại an lạc hạnh phúc đích thực. Những gì cần làm phải làm là ngăn ngừa chế ngự các căn, từ bỏ lìa xa bất thiện xấu ác, tu tập giữ gìn phát huy nuôi dưỡng tâm thiện ý lành, hành động nói năng ngôn ngữ suy nghĩ phù hợp với chánh pháp.
Đối tượng dùng để quán chiếu tu tập ở vào thời xưa, tương đối rõ nét hơn bây giờ, dù đối tượng vẫn là thiên nhiên và con người, tâm cảnh. Nhưng ở vào thời của chúng ta thì không hề đơn giản, cũng vẫn đối tượng đó vẫn thiên nhiên con người đó, nhưng hoàn cảnh tâm cảnh bây giờ có nhiều biến tướng, biến chất, giả tướng, giả cảnh, ảo tướng, ảo cảnh, thật giả lẫn lộn khó phân. Tâm thức của ta bây giờ đa dạng quy mô quỷ quyệt ranh mãnh, lắm mưu nhiều chước, lắm trò múa rối tung hô gọi mời, không biết đâu là thật đâu là giả, thật giả khó phân khó lường. Ta dùng cái tạm gọi là thật để quán cái thật ấy, để thấy cái mà ta cho là thật chính là giả không thật chẳng thật, chỉ duyên với nhau mà thành hợp với nhau mà có, duyên đến tạm gọi là có duyên đi lại hoàn không, không thật lộng giả thành chơn.
Khi quán chiếu đối tượng ta cho là giả đó, liệu ta có thấy được nhận chân ra được cái thật đằng sau cái giả ẩn mình ở yên nằm ngủ, hay giả vẫn là giả và thật vẫn là thật không thể lẫn lộn, không khởi phân biệt, không loại trừ. Từ giả để ta thấy là thật, từ giả để thấy là giả, từ thật để thấy là thật hữu, từ cái bản chất thật để thấy cái rốt ráo là giả. Huyễn tướng giả tướng giả danh không thật, từ mọi hiện tượng sinh khởi của sắc pháp tâm pháp. Cho cùng bản chất như thật tánh tướng thường tại, bản thể chân như không cùng vô tận, mới là thường hằng vô sinh bất diệt.
Phương pháp tu tập của ta bây giờ cũng có sự đổi thay, tham sân si trong ta bây giờ cũng được nâng cấp lên đời, ta chạy theo cảnh theo người, theo kịp trào lưu hiện đại, chỗ nào đông đúc nhộn nhịp là ta chen vào lấn tới, chỗ nào vui vẻ ồn ào là ta có mặt xông lên. Ta chạy kịp theo trào lưu biến hóa, hụt hơi theo sắc màu kiểu cách tướng danh, để được thiên hạ trầm trồ tung hô bái phục, người ngắm kẻ nhìn vỗ tay tán thưởng. Tam độc trong ta càng lên cấp độ cường độ, lòng tham không chỉ dừng lại ở chỗ tham đơn giản, tham nhưng còn biết vừa, ta tham đến chỗ tận cùng của tham, tham hết chỗ nói hết kẽ hở để kẻ khác còn có cơ hội, tham đến độ không chỉ dành cho mình, mà còn chừa phần cho con lẫn cháu. Tánh tham lòng tham đó đêm ngày nung nấu, bằng mọi cách mọi chiêu phải tóm gọn về mình, không chừa phần cho ai cả, tham đến chỗ thâm mà vẫn chưa chừa là tại làm sao? Sân hận, cũng dữ dằn không kém chẳng chịu vừa, khi nó nổi lên tàn phá triệt tiêu tất cả mà vẫn chưa hả lòng vừa ý. Còn muốn phá tung phá nát giật sập không chi cứu vãn, không còn chút đường lui cạn tàu ráo máng. Ta học hỏi chiêu trò cách thức, cái nào càng tinh vi càng khoái, càng làm cho mau tiêu tán càng thích, sân hận truyền từ đời này sang đời khác, mối thù truyền kiếp kéo theo mải miết không chịu dừng. Si mê tăm tối lại càng tối tăm hơn, nhờ phương tiện nối kết hiện đại, nhờ nâng cấp nghĩ suy, nên ta học thật nhanh thói hư ô nhiễm, quen mau chóng thích nghi đắm nhiễm lợi danh, si mê mờ mịt chồng chất cao dày, niềm đau nỗi khổ dâng cao ngập lối, sống mải miết với đam mê hoang tưởng, ngủ quên trong vô minh quên cả lối về.
Cũng chỉ vì tại vì, do ta hướng ngoại tìm cầu những điều không thật, nghe lời dụ dỗ mật ngọt rót đầy tai, mất phương lạc hướng chạy theo cảnh theo người, thật giả khó phân khua chiêng đánh trống, tu tập ồn ào quảng cáo rầm rộ. Chỉ có pháp môn ta theo tông phái ta nhập mới là chân chính, giải thoát đâu chưa thấy càng thêm trói thêm buộc thêm ràng. Những diễn biến phức tạp trôi nổi từ nơi các căn, khiến ta càng lạc vào mê lộ, đàng trước mịt mờ đằng sau mất lối, vô minh tham sân si ra sức gây lũng đoạn phá rối. Ta sống và thở trong thế giới muôn màu lắm sắc, biến chất biến hình tinh quái, không một lối thoát không một sinh lộ. Mục đích mà ta nhắm đến có là cần thiết có là chánh đạo, có phù hợp với chánh pháp? Hay chỉ thích hợp với trào lưu, để mong được nổi danh, mong sớm đến đích, dù sai đường lạc bước, tham sân si vô minh chủ động đẩy đưa.
Cuộc chiến ở trong tâm thức, những rượt bắt đuổi nhau giành giật, khi các căn lụn bại tâm trí mê mờ ô nhiễm chồng chất, vô thường sinh tử ập đến, sợ hãi lo lắng quá độ, vô minh tam độc thống lãnh ngự trị, cái ác điều bất thiện lên ngôi nắm giữ. Đấu tranh loại trừ rời xa buông bỏ, là cả sự nỗ lực, quá trình liên tục và bền bỉ, nếu không khéo léo vựt dậy trí tuệ sáng soi ta dễ rơi vào lầm lạc trá hình dẫn đến nhiều hệ luỵ, lúc đó kẻ đau khổ não phiền hành hạ, không ai khác chính ta chủ nhân của những vấn đề đó. Một khi ta biết duy trì sự trong sáng lắng đọng thuần khiết, thì tâm ta mới không bị tạp nhiễm biến động xen vào gây hấn, tâm ta trở nên sáng suốt tinh tường. Khi ta thụ động phó mặt không ngăn ngừa phòng bị, để cho dòng tâm thức đi hoang lẫn lộn, không chịu kéo về theo dõi, không chịu dõi theo kiểm soát cứ để cho nó lưu lạc đi rông. Lúc đó nó kéo ta lôi ta khiến ta lầm lũi bước theo, đi mải miết trong sanh tử mịt mùng thăm thẳm, không thấy đâu là bến bờ không tìm được nơi nương tựa. Ta về đâu giữa dòng đời thác loạn, tâm thức nổi trôi bất định, nghiệt ngã khổ đau bám theo phủ kín lối đi về?
Níu rồi kéo, buông rồi nắm, bỏ thì vương, vương thì tội, đứng thì đợi, về thì trông, trông rồi ngóng. Cái vòng kim cô nghiệt ngã lo sợ não phiền ấy, cứ đuổi theo bám chặt chơi trò mèo bắt chuột, chơi trò bắt bóng thả mồi, chơi trò trốn tìm cút bắt. Nhưng hình như ta lại rất mực ưa thích chìu chuộng, ta liên tục để cho tâm ta lang thang bất định, thoạt ẩn thoạt hiện chẳng hề tìm cách dẫn dắt, chẳng chịu hướng nó về đường ngay lối thiện. Do ta tại ta lỗi của ta không chịu gạn lọc, không chịu chế ngự, không tìm cách bỏ buông, không dõi theo kiểm soát, không tỉnh thức nhẹ nhàng.
Thật ra các căn có thể gây nên tội lỗi bất thiện, nhưng nếu chúng ta biết tu tập hoán chuyển đổi thay làm mới, thì cũng chính các căn góp phần đắc lực tạo nên thiện lành tốt đẹp cho chúng ta vậy. Ta cần nương vào các căn để tu tập, phát khởi tâm từ bi trí tuệ lớn mạnh, sao cho được tươm tất đủ đầy trọn vẹn, thì chúng ta mới mong có được sự lạc an đích thật. Ta cũng không nên đàn áp bắt buộc chúng một cách đau khổ quá đáng, chúng ta tu tập trong mọi hoàn cảnh, cảnh duyên nghiệp quả số phận, miễn sao ta chọn con đường trung đạo vừa phải và chừng mực.
Có những điều chúng ta càng suy nghĩ, cố nghĩ luôn suy nghĩ thì lại nghĩ không ra không thấu, nhưng một khi ta buông xuống không thèm suy nghĩ nữa, chẳng có gì để phải suy nghĩ, không suy chẳng nghĩ, để cho đầu óc thảnh thơi không vướng bận, lúc đó bỗng nhiên bừng sáng thấy thật rõ ràng, nhận biết đâu là đâu. Cái thói quen tập trung bóp đầu nặn óc cố suy nghĩ lại trở thành một thứ tập quán cố hữu ở trong ta, nhiều lúc khiến mình phải phiền não khổ đau, khiến mình tìm không ra được lối thoát đa phần là do ta chấp trước và quan trọng hóa vấn đề. Thật ra có gì quan trọng hơn vô thường sinh tử, khi thời gian ngừng trôi, khi hơi thở ngừng lại, tới lúc phải ra đi, cho dù không buông cũng phải buông, không muốn đi cũng phải đi, muốn nghĩ cũng không còn nghĩ được, nếu là vậy sao ta không thực tập xả bỏ sớm hơn để cho được nhẹ nhàng.
Nếu ta biết trở về nương tựa sống với cái sơ tâm ban đầu cái chân tâm, cái tâm thật dễ thương trong sáng hồn nhiên, cái tâm toàn thiện sáng tỏ luân lưu thắm đượm trên mọi nẻo đi về, được như thế thì có gì để ta phải chạy nhảy lăn xăn lo toan giành giật níu kéo. Chúng ta phải thường xuyên duy trì tỉnh thức gìn giữ chánh niệm, nhận biết rõ ràng bản chất như thật của các pháp, kiểm soát cho tốt thân tâm ngôn hành tác tạo suy nghĩ. Ta nỗ lực tu tập trọn vẹn đủ đầy thiện pháp, an trú nơi cảnh giới thiện lành, đã là bước tiến tâm linh cao rồi vậy. Chúng ta tinh cần tu tập một lòng hướng tâm về con đường giải thoát, tuệ giác bừng lên thắp sáng hiện thực, thấy được chân như bản tánh cũng là lúc đốt sạch triệt tiêu, tham sân si vô minh tăm tối. Lúc ấy năng sở tâm cảnh, đối tượng nhận thức cùng chung một bản thể giác ngộ thường hằng trú ngụ.
Lời kinh khuya khép lại, di ngôn xưa bỗng trở về lồng lộng, vang vọng thênh thang lời nhắn bảo, khúc thinh âm không cùng, bản hòa tấu vô biên bất tận, thắm đượm cõi thiền tâm. Ngàn năm trước như ngưng đọng lại, cho ngàn sau còn mãi ánh trăng huyền, quá khứ tương lai hiện tại bây giờ, lạc an đong đầy trong từng nhịp thở, ta sống trọn với pháp âm tuyệt vời ấy, ta mãi an vui với diệu pháp chân thường.
ĐÔI MẮT BIẾT TU
Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên những khi mơ màng lơ đãng, lúc thả hồn đi hoang, khi u buồn khắc khoải, lúc mộng mơ vượt rào, khi hạnh phúc dâng tràn, lúc bồn chồn lo lắng, sẽ khiến cho người đối diện dễ dàng phát hiện ra những thầm kín chôn dấu đó đây. Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc hay đong đầy hệ lụy khổ đau, đều tùy thuộc vào tầm nhìn sự xúc cảm những bất an biến động nổi dậy, hay sự bình yên lan tỏa trong tâm thức mỗi chúng ta.
Vì là cửa sổ nên khi mắt mở ra ta trông thấy được thế giới bên ngoài, thì lẽ đương nhiên đối tượng cũng có thể thấy được phần nào bên trong của ta, nếu ta không biết che đậy không khéo léo ngụy trang. Đôi mắt biết nói biết cười biết buồn biết vui biết nhớ nhung, khi có tin vui rộn ràng sẽ lóe lên niềm hy vọng. Khi mộng mơ lúc nhớ thương đến độ dư thừa, mắt sẽ nhỏ lệ đau khổ, đôi mắt long lanh huyền mơ ướt át xa xăm nhìn về chốn cũ, đôi mắt buồn không cất nên lời khi buồn hay vui cũng đều ướt sũng. Khi ta nổi giận mắt sẽ đổi màu, giận tím gan tức tối lộn ruột, mắt sẽ chuyển sang màu đỏ như muốn ăn tươi nuốt sống người đối diện. Nếu ta cứ để cho bản tính và những cảm xúc không kiềm chế của mình thường xuyên nổi lên, thì sẽ làm đau mắt khổ tâm. Khi tâm hồn thanh thản chứa đầy hỷ lạc, mắt sẽ trở nên hiền hòa dễ thương, tạo sự an lòng cảm thông mang năng lực bình yên đến cho người đối diện. Nói chung sự biến đổi nơi tâm hồn của mình đều có thể thông qua mắt, bộc lộ ra hết hiển bày ra trước khó lòng dấu được. Từ bên ngoài đưa đến hay ở bên trong lộ ra, do cảnh do người đều khiến cho mắt thêm sắc màu cảm xúc, mắt thấy tâm khởi, tâm thức của ta theo đó mà tác động dong ruổi. Đôi mắt không chỉ dùng để phân biệt nhận diện, nó còn là dòng sông cho thuyền anh ghé lại, còn là bến chờ bến đợi người thương kẻ nhớ, còn là giếng ngọc bến tiên bến đỗ cho anh tha hồ rong chơi bơi lội.
Ở một khoảnh khắc lặng yên đâu đó còn sót lại, nó còn là nơi chôn dấu cảnh và người thâu gom lại vùng trời kỷ niệm, cuộc bể dâu những dấu ấn khó phai tháng ngày trao ra và nhận lại, dõi mắt ngóng về tương lai, tất cả như in dấu hằn trong ấy đọng lại, lọt thỏm nằm trọn trong đó. Ở khía cạnh khác đôi khi còn có ăn bằng mắt uống bằng mắt, thưởng thức bằng mắt rửa mắt, nhìn thấu tâm can của kẻ khác, nhìn cháy da bỏng thịt liếc ngang nhìn dọc nhìn không vừa mắt. Con mắt này vì ta mà mòn mỏi ngóng trông, vì ta mà nhận lấy hậu quả, vì ta mà đổ bệnh nhỏ lệ, thương cho đôi mắt này, thật đáng thương cho đôi mắt này.
Đôi mắt hai cánh cửa đó ở đó và trong đó, mở ra để đón gió trời lồng lộng hay đóng kín mít che mờ phủ đầy bụi bặm rong rêu. Mở ra hưởng trọn sắc màu tươi đẹp hay khép lại ẩn chứa những nỗi niềm nghiệt ngã, tạo thêm ô nhiễm nhọc nhằn cho mắt tổn hại cho tâm. Cánh cửa tâm hồn đó tâm thức đó con người đó, có còn vướng bận lo toan ngược xuôi đong đếm hay rộng mở thênh thang tầm nhìn vươn cao không gì ngăn ngại.
Ta có thật sự thương yêu và quý trọng đôi mắt này, tìm cách để nó ngơi nghĩ, hãy nhắm mắt ngồi im lắng đọng, để thấy từng nhịp thở an lành luân chuyển. Không thúc ép không dối gạt không để cho nó nhìn thấy những điều những việc mà nó chẳng hề muốn thấy, không lạm dụng khiến nó nhỏ lệ khổ đau, chẳng khiến nó dửng dưng thờ ơ khô khan. Nhìn khổ đau ngang trái để phát khởi lòng từ bi, thấy luân hồi sanh tử để một lòng cầu giải thoát, nhận biết cuộc đời vô thường thân phận mong manh sớm nở tối tàn. Thấy những điều đó ý thức trọn vẹn việc đó, để làm hành trang chất liệu thăng hoa cuộc sống vươn lên tìm một sinh lộ, một sự đổi thay đúng nghĩa. Thực tập và hoàn thiện cách sống lối sống của ta cho thật mỹ mãn cho thật tươm tất vẹn toàn, tẩy sạch não phiền gột rửa thân tâm luôn được tươi sáng. Được như vậy, đôi mắt đó cái nhìn đó con người đó mới trở nên có giá trị, mang lại ánh sáng tuệ giác cho chính mình và tha nhân.
Chúng ta còn nhớ câu chuyện Thiền Sư và cô lái đò, chuyện kể rằng:
“Cô lái đò đưa khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người.
Sau hết đến nhà sư.
Cô lái đò đòi tiền gấp đôi.
Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao?
Cô lái mỉm cười:
– Vì Thầy nhìn em…
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần này cô lái đòi tiền gấp ba.
Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái cười bảo:
– Lần này Thầy nhìn em dưới nước.
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.
Lần khác nhà sư lại qua sông.
Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.
Đò cập bến cô lái đò thu tiền gấp năm lần.
Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái đáp:
– Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em.
Nhà sư trả tiền và lên bờ.
Một hôm nhà sư lại qua sông.
Lần này nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò…
Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần này phải trả bao nhiêu?
Cô lái đáp:
– Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền.
Thiền sư hỏi:
– Vì sao vậy?
Cô lái cười đáp:
– Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới em nữa…
Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi”…
Mắt nhìn rồi mắt thấy, mắt thấy tâm liền sanh, do tâm ta khởi vọng tâm phân biệt tính toán so đo, tâm tích chứa tâm ô nhiễm, vậy tại tâm ta hay tại mắt? Và nếu, mắt chỉ làm mỗi một việc duy nhất trông thấy chụp lại cái khoảnh khắc đó giây phút hiện hữu đó, thấy đường thấy lối thấy cảnh thấy người, vậy mắt có còn là mắt? Nhìn và thấy là chức năng thông thường của mắt, nhưng nhìn như thế nào thấy ra làm sao lại là vấn đề của tâm thức ta. Nhìn một chiều thấy một bên cái nhìn méo mó cái nhìn tỷ giảo, nhìn ra bên ngoài hay nhìn vào bên trong, có thấy rõ bên ngoài lẫn bên trong. Thấy ngoại cảnh mà không thấy nội tâm, thường xuyên thấy lỗi của kẻ khác, không thấy được chỗ sai của mình, vô minh còn phong tỏa nội tâm ngày đêm tất bật. Đôi mắt sáng suốt cái tâm tinh tường, là phải nhìn thấy thật rõ ràng mọi chuyển động mọi ngăn cách tác hại, dù ở bên ngoài hay ở bên trong đều phải tỏ rõ, thấy một cách trọn vẹn sự biến đổi của các pháp, sự trôi nổi đi lại của tâm thức, thấy và sống trọn vẹn trong niềm hỷ lạc tự tại trên từng đến đi.
Trong thiền có con mắt huệ, con mắt thấu rõ thông suốt vượt ra ngoài ngăn ngại chấp trước, không hề vương vấn không hề lưu lại, không chìm nơi cảnh chẳng đọng nơi tâm phủ sạch mê mờ. Nhìn mà không đắm thấy mà không vương không khởi, thấy đơn thuần chỉ là thấy, thấy như là không thấy, thấy một cách rõ ràng chân thật, thấy trọn vẹn tận cùng thể tánh các pháp, cái thấy đó mới là đích thực. Đôi mắt với cái nhìn như thật, mộc mạc chân tình cái nhìn tuyệt đẹp vượt thời gian, cái nhìn toàn diện cái nhìn nhân ái thoát khỏi nhân ngã bỉ thử, cái nhìn tự tại vượt ra ngoài mọi ngăn cách phạm trù nhị nguyên kiến giải của tri thức. Cái nhìn rỗng suốt thanh thản ở bên trong hé lộ ra bên ngoài làm ấm lòng kẻ khác, cái nhìn không còn sanh diệt không bị gò bó thúc ép, tánh thấy hiển lộ tròn đầy, cái nhìn như thị của chánh kiến, nhìn được như thế thấy được như vậy, thì đâu còn lo sợ bất an.
Chúng ta sống trong môi trường hiện đại, với vô số phương tiện nên cũng có quá nhiều cám dỗ thường xuyên rình rập, chỉ trong tích tắc thả hồn lạc bước để mắt rời tâm, là dẫn ta đến với những huyền mơ hưng phấn thật ảo khó phân, ta bị lường gạt bị đầu độc làm hư mắt nhiễm tâm. Internet, mạng lưới thông tin nối kết toàn cầu đem con người lại gần với nhau thật là tiện lợi, nhưng bên cạnh đó cũng đầy cạm bẫy bất trắc rủi ro. Cái thế giới ta thường cho là ảo nhưng lại có sức cám dỗ sức quyến rũ mê hồn, muôn ngàn sắc màu lấp lánh, có lắm chiêu thức rủ rê thường xuyên lôi kéo tác động. Nó khiến cho ta mất phương lạc hướng, chạy theo đắm chìm cắm đầu chúi mũi mờ mắt mỏi tay, tốn hao tâm sức thời gian, liên tục nhảy vào đó dấn thân vào đó sống trong điều ảo đó.
Ta cho đó là ảo vì không thấy mặt mũi nó, nhưng khi xử dụng nó lù lù xuất hiện. Thật ra ảo cũng có thể là thật, dù ta có gọi là gì đi nữa thì ta cũng phải công nhận một điều, không ít thì nhiều nó có dự phần vào cuộc sống của ta. Mỗi khi ta đụng tới xử dụng đến, nó lập tức gắn liền với suy nghĩ và hành động của ta, tức là ta có tác nghiệp tạo nên nghiệp quả. Trừ khi ta không ngó ngàng đến không xử dụng tới thì sẽ không tạo ra nghiệp. Ở cái thế giới ảo đó ta dễ ngụy trang giấu mặt đổi tên ném đá dấu tay, tha hồ phát ngôn tha hồ lên án tha hồ kết tội, đâm vào mắt vào tim kẻ khác, nhưng ta lại dửng dưng không cần phải chịu trách nhiệm. Ta phải biết rõ ràng ai làm nấy chịu ai tạo nấy mang, làm bao nhiêu thì chịu bấy nhiêu không làm thì sẽ không chịu, luật nhân quả sẽ theo ta như bóng với hình không chừa một ai.
Ta tìm chút vui quên đi nỗi buồn, giết thời gian quên đi tháng ngày mưa nắng, không khéo ta lại dính vào vướng mãi bỏ không được buông cũng chẳng xong. Chuyện của người chuyện của ta tâm sự của mình nỗi lòng của kẻ khác, thi nhau nở hoa thi nhau lạc bước vào hồn quyện chặt vào tâm, nhắm mắt hay mở mắt lúc nào cũng vương vấn. Tại người hay tại ta lỗi mình hay lỗi bạn, cứ mỗi lần cầm phone, mỗi dịp nhắn tin, khi mấy ngón tay gõ xuống phím, khi lướt sóng là không biết bao nhiêu chuyện bao nhiêu việc cứ thế đổ về ngập đầu tràn óc. Việc người chuyện ta, phiền não của mình đến kẻ khác luôn chiếm sân trú ngụ, phủ mốc đầy rêu, nhiều khi không phải chuyện của mình việc của mình, chuyện bao đồng nhưng sao cứ ấm ức nhập nhằng lẫn lộn, thị phi não phiền được mất hơn thua gỡ rối tơ lòng trút bầu tâm sự cảm thông chia xẻ, cứ vậy đêm ngày réo gọi. Chuyện ngoài ngõ trong nhà, chuyện đầu thôn cuối xóm, chuyện xưa việc nay, thi nhau vương vấn đọng lại, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng như sắp nổ tung, ta làm chuyên gia giải quyết, cố vấn lập kế bày mưu, hỉ hả tung hê.
Cuối cùng, nhọc đầu mệt óc bơ phờ rời rạc chẳng đâu là đâu trông lúc nào cũng vướng cũng bận, cứ thế ngày lại ngày qua đêm lại đêm đến, ta mãi ôm não phiền vào lòng chôn dấu trong tim phủ kín trong từng hơi thở khó lòng thoát ra được. Loanh quanh luẩn quẩn riết rồi ta sống trong đó, cứ thế mà trôi nỗi trở thành tập quán lẽ sống của ta từ lúc nào chẳng hay. Có phải, do vì ta không làm chủ được chính mình, không nhận ra bản chất đích thực của từng vấn đề, lạm dụng quá mức rơi vào mê cảnh khiến cho thân tâm mệt mỏi chán chường, phiền não chướng duyên nhảy vào gây rối?
Thật ra internet chỉ là phương tiện, nên khi xử dụng luôn có mặt tốt và xấu, lợi và hại, quan trọng là người xử dụng các phương tiện đó, biết khôn khéo có trách nhiệm chọn lựa kỹ càng không ức hiếp biết dừng lại đúng lúc, thì sẽ không làm cho mắt cho tâm mệt mỏi tiêu hao năng lực mang thêm hệ lụy tạo thêm nhiều nghiệp quả. Nếu ta, xử dụng một cách chân chính phù hợp với chánh pháp đúng với mục đích nâng cao sự hiểu biết giúp ích cho sự tu học, giải trí trong sự chừng mực, thì mới mang lại giá trị thiết thực. Và quan trọng hơn hết ta phải thường xuyên kiểm soát tỉnh thức trong mọi tình huống, nhận ra nguồn cội của từng vấn đề, đừng để cho nó lôi ta đi hoài đi mãi không thấy được đâu là bến bờ.
Những điều ta cho là thật biết đâu lại không thật, những điều hư ảo ta lại nhầm tưởng là thật, có những điều ta cho là hợp lý biết đâu lại là phi lý. Ranh giới giữa có lý và phi lý tốt và xấu, thật và ảo cũng rất mong manh. Tất cả đều do ta có cái nhìn đúng với như pháp có trí tuệ hay không, nếu ta không biết quán chiếu tinh tường thì khó nhận chân ra được. Nó có mặt ở khắp chốn mọi nơi, người ảo tâm ảo cảnh ảo, khiến ta khó lòng nhận biết, nên cứ mải miết bám theo nhọc mình lao tới. Trong khi, cái thật điều thật lại xa xăm vời vợi ở tận đâu đâu có khi thật gần mà lại thật xa khiến ta hụt hơi đuổi bắt. Thật ra, nếu ta nỗ lực tìm cầu ngồi im lắng đọng nhìn xa trông rộng nhận ra được điều ảo là ảo thật là thật, cái gì là ảo cái gì là thật, trong ảo có thật trong thật có ảo, đó cũng là bước nhảy tâm linh khá cao, ít ra ta phát hiện được cái nghiệp do mình tác tạo dẫn dắt ta tới đâu.
Trong sách Khóa Hư Lục, phần Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi do vua Trần Thái Tông (1218 - 1277) biên soạn, dùng để tu tập sáu căn, vua có liệt kê về những tội do mắt gây ra:
“Tội mắt gồm có, các điều như sau:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành:
Chợt mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai:
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang:
Lòa mắt chưa sanh, bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn:
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô:
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền,
Gần tượng thấy kinh, mắt không thèm ngó.
Phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai,
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần:
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên:
Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người:
Dù được làm người, lại bị mù chột.
Nếu không sám hối, khó được tiêu trừ.
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối”.
Đệ tử chúng con chí tâm phát nguyện
“Một, nguyện rộng mở, cặp mắt chánh kiến
Hại, nguyện lau sạch, cát bụi trần lao
Ba, nguyện nhìn hình, mắt không đắm mến
Bốn, nguyện thấy sắc, tâm chẳng lay động
Năm, nguyện quên đầu, cần kíp nhận ra
Sáu, nguyện mắt tuệ, tự tròn đầy đủ
Bảy, nguyện hiện nay, sớm tỉnh mộng trần
Tám, nguyện hằng được, sáng xưa trong suốt
Chín, nguyện khi nhìn, trừ che huyễn uế
Mười, nguyện chỗ thấy, chấm dứt hoa sanh
Nguyện thứ mười một, trông xa mây cuốn
Và nguyện mười hai, chớp mắt nghiệp băng”.
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Con mắt ở vào thời điểm cách đây gần một ngàn năm và con mắt của bây giờ nó cũng khác nhau rất xa, con mắt bây giờ ranh mãnh nhờ vào sự hiện đại, cảnh duyên có muôn ngàn hồng tía, dễ khiến cho ta mờ mắt ô tâm nhiễm tánh. Trong sáu căn gồm có: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ngoài ý ra, ta thường xuyên xử dụng đến mắt nhiều nhất, vì vậy những tội do mắt gây ra cũng nhiều vô số. Chức năng chính của mắt là nhìn ngắm và quan sát, nhưng khi khởi lên sự so sánh, phân biệt thì lại là ý, tên tội phạm gây nguy hại nhất, từ mắt dẫn đến thân tâm, khởi lên muôn ngàn sai biệt, nói như vậy không có nghĩa là mắt không tạo nên tội lỗi. Các căn, đều liên quan mật thiết với nhau, mắt thấy, tai nghe miệng phát ra lời đúng sai, thân hành động, lưỡi liền phân biệt, mũi ngửi điều bất tịnh, ý cuồn cuộn nổi lên lăn xăn chạy nhảy. Căn và trần đụng nhau sẽ sinh ra thức, khi một căn thông tuệ tường tận nguồn cơn, thì những căn khác cũng sẽ trở nên rõ ràng.
Thông thường, điều ác cái ác việc ác ta lại xem thật kỹ, điều thiện việc thiện ta lại xem thường không biết nặng nhẹ, đắm nhiễm sắc đẹp tạo nên vô số tội và quan trọng hơn nữa, vì bị vô minh che mờ không thấy được mặt mũi thật của mình (bản lai diện mục) nên mãi chìm, mãi lênh đênh trong ba cõi sáu đường. Bên cạnh đó, có sự nâng cấp tưởng tượng dồi dào đôi khi thay thế vị trí của một vài căn, chẳng hạn khi diễn tả sự thèm thuồng, thay vì phải dùng đến miệng lưỡi, thì là ăn bằng mắt, uống bằng mắt thưởng thức sắc đẹp bằng mắt, cái nhìn như đọng lại ẩn chứa trong đó tôn sùng trong đó mập mờ trong đó.
Tu tập về mắt, là một sự tu tập thật cần thiết, nhìn nhưng không khởi lên phân biệt, không chạy theo huyễn cảnh, khiến ta mờ mắt, hao tâm, mệt trí. Thay vì đắm nhiễm lôi kéo lệ thuộc bởi cái nhìn ở bên ngoài, ta xoay chiều nhìn thẳng vào nội tâm quán chiếu tận cùng lòng mình, tâm mình, thấy mọi hưng khởi, tác động, đi lại ở trong tâm, được trong sáng, rõ ràng, rốt ráo, để cho tự tánh giác ngộ trong ta bừng dậy. Ta nỗ lực dồn tâm ý vào một điểm của thực tại, phải sáng suốt và thường xuyên tỉnh thức, vận dụng đến trí tuệ trong mọi suy tư hành hoạt. Trí tuệ phát sinh là do ta ra công gắng sức tu tập, đoạn trừ phiền não gạn lọc vô minh, một khi ta thấy rõ được bản chất như thật của các pháp cũng là lúc ta phục hồi lại giá trị thật hữu của nó, lúc đó không còn gì chẳng có gì có thể trói buộc níu kéo được ta.
Nhìn cho đẹp sửa cho sang làm vừa lòng cái đẹp, nâng cấp cái đẹp chạy theo cái đẹp, để cho mình và kẻ khác ngắm khen, khiến ta đau đớn thân tâm. Mắt từ bi tâm nghĩ thiện làm điều lành lợi mình và lợi người, đẹp từ trong tâm cái đẹp được tôn vinh vượt thời gian cái đẹp toàn hảo bất biến cái đẹp của chánh pháp.
NGHE MÀ KHÔNG NGHE
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
Có những thứ tiếng chỉ nghe một lần là không muốn nghe, nhắm mắt bịt tai ngày chán đêm phiền. Âm thanh của những người ta ghét cay ghét đắng, những gì ta chẳng ưa chẳng thèm, chẳng muốn nhìn mặt, chẳng muốn nghe tên, những đắng cay ngậm ngùi nằm im trong sâu thẳm ta sợ động vào khuấy lên. Và còn có sự phiền muộn thi nhau rượt đuổi theo âm thanh ngôn ngữ, lời chê bai phê phán tiếng thở dài cằn nhằn mọi lúc mọi nơi, ôm chặt lấy ta khiến ta sống trong lo sợ não phiền chưa biết đến bao giờ mới thoát ra được.
Những trạng thái và tâm cảnh đó, đều là những nguyên nhân và mầm mống làm cho ta trôi lăn trong đau khổ. Sự đắm nhiễm tham ái cứ liên tục dâng cao, không còn khoảng trống để ta hít thở, nếu ta không biết kiềm chế giữ tâm cho thật bình thản, thì sẽ tăng trưởng lòng kiêu mạn và lớn mạnh của bản ngã, sự nguy hại ngày càng gia tăng, nghiệp quả bất thiện ngày càng sâu dày. Muốn thoát ra không còn vấn vương lệ thuộc, là khi ta biết chuyển hoá thành lòng từ ái bi mẫn, thăng hoa nội tâm để được trong sáng thảnh thơi, lắng nghe con tim chân thật của mình mách bảo, biết dâng hiến cho đời những giá trị an lành cao đẹp.
Trong tận cùng sâu xa dấu chôn những ẩn mang vi tế trú ngụ, đâu đó trong ta vẫn ưa thích lưu luyến nghe theo những gì bản năng mách bảo xúi dục, và ngược lại chán ghét những gì ta không vừa ý bằng lòng. Chỉ với hai thứ khen chê thương ghét và với cái tâm phân biệt ưa thích đắm nhiễm, mà làm cho ta đi hoài đi mãi loanh quanh trong cõi mịt mùng tăm tối, mãi lang thang đếm bước trên từng cuộc lữ vẫn chưa thấy đâu là bờ mê bến ngộ. Từng ý nghĩ và hành động chứa đầy lo sợ bất an, tâm tư nhọc nhằn trĩu nặng khô héo rã rời, khổ đau vây quanh nghe vô thường đếm bước. Thời gian qua mau tâm thức đợi mong lỗi nhịp, những biến động luân phiên vỗ vào từng ý niệm. Đêm lại đêm mộng gối chốn vô thường, tìm đâu điểm dừng mong manh trên lối về lữ thứ, tay trắng tay lòng đắng lòng phận làm cam chịu, có không được mất vây quanh đứng đợi từ bao giờ.
Một khi ta nghe những não phiền thị phi, tranh giành dối gạt, mưu mô chiếm đoạt, hơn thua giành giật, gọi mời rỉ rã, ngọt bùi thương tiếc, những vớ va vớ vẩn. Trong ta lại khởi lên phiền muộn đắm say, sống với cái tâm tưởng bất định, tự mình đánh mất làm khổ chính mình. Dĩ nhiên ta không thể nhắm mắt bịt tai, phong tỏa mọi ngõ ngách đi lại, điều quan trọng ta hướng cái nghe đó cho mục đích cao cả, dẫn cái nghe đến với sự trong sáng trọn vẹn như thật, không tạo sức ép sự căng thẳng sẽ đưa đến bế tắc và khủng hoảng. Nếu ta không làm chủ được thân tâm, vận dụng trí tuệ sáng soi, hành xử đúng mực, thì sẽ khiến cho tâm tánh của mình chạy theo vướng mắc, trói buộc vào cảnh duyên, trôi theo từng biến động. Làm cho mình vốn đã lận đận lại càng lận đận, vương vấn lại càng vấn vương, càng phiền càng khổ lại càng thêm đau. Thực tập xã ly buông bỏ, hoán chuyển niềm đau nỗi khổ thành tấm lòng từ bi bao la rộng lớn, đó là cách tốt nhất để ta quân bình nội tâm tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống.
Khi nghe biết nghe lắng nghe là ta thanh lọc và từng bước làm cho cái nghe của mình trở nên cao đẹp, chuyển hóa cái nghe của mình trở nên tinh tế diệu kỳ, nghe mà tâm không đọng không vương, không lưu luyến giận hờn, không phiền muộn khổ đau. Nghe từng nhịp thở bao dung thương yêu nơi con tim đong đầy cảm thông chia xẻ, cõi lòng ngập tràn nhân ái độ lượng, tâm tư thảnh thơi tỉnh thức. Chỉ nghe những gì nên nghe cần phải nghe, không nên nghe những gì làm cho mình ràng buộc biến động chao đảo, nhọc lòng mệt trí. Nghe điều hay lẽ phải điều thiện tốt lành, những gì phù hợp với chánh pháp, giúp ích cho sự tu học đưa đến an lạc giải thoát. Không nên nghe những gì làm cho rối dạ nhiễm tâm, phiền não tham sân si nổi lên vô minh trỗi dậy, ta phải nhất quyết loại trừ gạt bỏ ra ngoài. Hiểu và biết những gì nên nghe và không nghe, đó là dấu hiệu tích cực đáng quý trong việc gỡ bỏ những vướng mắc nguy hại. Hãy để cho nó trở về với điểm khởi mà nó đã đến, trả nó về với bản thể ban đầu mà nó đã trú ngụ. Ta duy trì phòng hộ các căn bằng sự minh mẫn tỉnh thức, thường xuyên tăng trưởng tâm lành an lạc.
Thật ra nghe được đã là một hạnh phúc lớn, có biết bao người không nghe được và cũng chẳng có cơ hội được nghe, hoặc được nghe nhưng trong sự méo mó và không đúng với tính chất như thật. Cái nghe của mình cũng tội nghiệp lắm, nó chỉ làm trọn chức năng đã được giao phó “mắt thấy tai nghe” nhưng nghe như thế nào và tại làm sao, thì do anh bạn lớn tên Ý quyết định. Cái anh tâm ý đó, khi thì hiền lành dễ thương khi thì dữ dằn khủng khiếp, lúc thì tra tấn đàn áp lúc thì vỗ về an ủi, anh ta không vừa lòng điều gì cả và rất khó hầu hạ, chạy nhảy lăn xăn tâm tánh thất thường. Anh ý dư thừa chiêu thức mưu mô mánh lới mê hoặc, dẫn ta đi từ tâm cảnh này đến biến động khác mà không hề mỏi mệt, rủ rê dụ dỗ ta chạy từ đông sang tây hết chổ này đến chổ kia mà vẫn chưa vừa lòng. Thỉnh thoảng ta phát hiện ra, ta lo lắng tìm cách thoát ly, nhưng có lẽ anh ấy mưu mô quỷ quyệt đa đoan khiến ta đành bất lực chào thua, và phần nhiều tại ta không quyết lòng không bình tâm lắng đọng suy xét. Cứ lần lựa trôi theo tháng ngày không làm cuộc cách mạng triệt để, không giải quyết một lần cho xong cho trọn. Ta cố tình tạo ranh giới, bày ra cuộc chơi, để rồi phân định đúng sai nhờ vả dựa dẫm và lợi dụng, rồi lại tìm cách vượt qua xây dựng đạp đổ ngụy tạo thật nhiều. Cuối cùng ta phẫn nộ la hét, đánh đấm túi bụi vào bức tường không tưởng ấy. Ưa và ghét cũng chỉ là trạng thái tâm lý, bản năng cố hữu đi lại bất chợt ở trong ta, một khi ta quyết lòng bền chí nhận rõ tất cả đều mang tính tùy tiện tương tác, đừng tạo nên sự áp đặt đừng vận mãi vào ôm cứng lấy thân tâm, phải tỉnh thức dứt khoát đẩy bung vượt qua bằng mọi giá, lên đường làm mới làm sạch thân tâm bằng chất liệu của giải thoát.
Nếu ta chỉ chọn lựa phân loại và dừng lại nơi sự nghe thì vẫn chưa đủ, trước hết ta cần quật khởi được bản thể thường tại của tánh nghe, bằng cách làm chủ và hướng cái nghe đến chỗ như thật tánh của các pháp. Khi nào ta thực tập đến chỗ nghe không còn nằm nơi căn trần thức, mà nghe bằng tánh nghe một cách tinh tường thông suốt, và đó cũng chính là bản thể vi diệu bất biến nằm sẵn ở trong ta. Cái tánh giác phải được châm ngòi bùng lên bằng sự quyết tâm hết lòng vực dậy, thường xuyên tăng trưởng những gì mang lại sự giác ngộ, phong tỏa những gì làm cho mê mờ tăm tối, tạo cơ hội để ánh sáng của chân lý soi tỏ muôn lối.
Vô thường bức hại tiêu diệt nuốt chửng tất cả mọi thứ, cái nghe âm thanh ngôn ngữ cũng vậy, nhưng tánh nghe thì có khác. Nó lắng đọng trùm khắp vượt ra ngoài biên độ, không có điểm khởi đầu và chung cuộc, không có ranh giới ngăn chia, không nằm ở vị trí và phương hướng nào. Do vậy nó không bị biến mất không bị chi phối sai sử, không bị tước đoạt biến thể, nó nguyên vẹn nhất như, nó vốn dĩ như thế, đến cũng như đi không hề đổi thay. Khi ta tu tập giỏi, là không để cho sự biến đổi có cơ hội chi phối hủy diệt, dù ta đang sống trong sự đổi thay, liên tục bị vô thường vây quanh truy bức, thân tứ đại sẽ có ngày tan hoại, sáu căn có khi bị bế tắc, mắt mờ tai điếc, nhưng cái chân tánh nơi ta lúc nào và ở đâu cũng vẫn thường tại. Nhờ nhận biết và thực tu mới không làm cho ta lúng túng, không làm cho ta dao động, vì ta đã nhận ra bản chất đích thực của nó vốn như vậy.
Thông thường sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý của ta tranh nhau hoạt động, giành nhau chi phối điều khiển, dù vậy nhưng lại dựa dẫm vào nhau nên rất khó để ta cột lại một chỗ. Một khi nó hoạt động thì luôn phiên lôi kéo xúi dục, đẩy ta rơi vào dính mắt lầm chấp, phần nhiều do tâm thức của ta chất đầy phiền não, vô minh hằn sâu in đậm trong chủng tử nhiều đời nhiều kiếp nên khó đổi thay. Khoảng trống để cho điều lành cái tốt điều hay cái đẹp không còn chỗ trú ngụ. Ta đánh mất chân tánh, bỏ quên bản tâm, không tạo cho mình cơ hội làm mới làm sạch làm chủ, nên ta chìm đắm trôi lăn dạo quanh cõi mộng bờ mê một đời trôi nỗi.
Ta đứng giữa hai bờ mê ngộ, cõi tử sinh réo gọi chốn vô thường, trong khoảnh khắc từ bề hoang dại ấy, mộng ngàn năm vẫn còn mộng miệt mài. Nghe đâu đây hạnh phúc nỉ non, nghe đâu đó phiền não dâng trào, nghe muôn lối vô thường dạo bước, nghe niềm đau nỗi nhớ gọi muôn phương. Ta lận đận một đời chìm trong mộng mị, được mất hơn thua vui buồn khổ não, dòng xuôi ngược với tháng ngày mưa nắng, phận người nghiệp ta lỗi tại cứ thế xoay vần. Ta vẫn chưa chịu dừng để nghe vô thường thổn thức, lắng đọng tâm tư để nghe tiếng lòng thở nhịp tin yêu, để nghe những hụt hẫng miệt mài nhắc nhở, để nghe dư âm trĩu nặng phiền muộn quấn chặt vào hồn. Nghe trong cõi ấy những dâng cao biệt ly tức tưởi, khung trời kỷ niệm mất mát thương đau đêm ngày luôn phiên nhắc nhở.
Tất cả như bản hoà tấu bất tận xa tít mù khơi, cung đàn lỡ nhịp trên dòng tử sinh vô tận, rốt cuộc chỉ có cõi lòng độ lượng mới đủ năng lực vượt sông sâu núi thẳm về với tấm chân tình. Chỉ có lòng từ ái bi mẫn cùng với tâm nguyện bao la cao cả mới đủ công năng ra tay tế độ trầm luân chúng sanh. Chỉ có tâm lượng vô biên lớn mạnh ngự mãi nơi cõi bình an mới chấm dứt được phiêu bồng lãng tử. Chỉ có quay về sống thật với nguồn cội chân như mới chấm dứt được huyễn mộng tử sinh.
Bây giờ ta hãy lắng cõi lòng để tâm thật tươi đẹp, nghe vua Trần Thái Tông (1218 - 1277) một vị thiền sư cư sĩ nổi tiếng trong thiền sử, đề cập đến cái nghe.
Nghiệp căn Tai là:
“Ghét nghe chánh pháp, thích lắng lời tà,
Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng.
Sáo đàn inh ỏi, bảo khúc long ngâm,
Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái.
Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ,
Lời kinh câu kệ, không chút lắng tai.
Thoáng nghe khen tốt, khấp khởi mong cầu,
Biết rõ lời lành, đâu từng ưng nhận.
Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi,
Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích.
Hoặc gặp thầy bạn, dạy bảo đinh ninh,
Những điều hiếu trung, che tai bỏ mặc.
Hoặc nghe tiếng xuyến, thất niệm buông lung,
Nghe nửa câu kinh, liền như tai ngựa.
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết.
Sau khi mạng chung, rơi ba đường ác
Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.
Nếu không sám hối khó được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối”.
Vua Trần Thái Tông nêu lên những nghiệp quả do cái nghe tác tạo, được vua nói đến cách đây gần một ngàn năm. Có lẽ bản chất của cái nghe ở hiện tại và thời đó cũng không khác gì mấy. Cái nghe của ta bây giờ đa dạng phong phú, lại được hỗ trợ bởi cái tâm thức mưu mô ranh mãnh, cùng với phương tiện dồi dào tối ưu, cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Cái nghe được nâng cấp vỗ về o bế, cưu mang chất chứa và nhiều dị biệt hơn. Môi trường sống của ta hiện đại tối tân, chiêu thức tiếp cận và trò múa rối dối gạt cũng tinh vi đa dạng, và lẽ đương nhiên tâm thức cùng nghiệp quả do ta tác tạo nặng nề sâu dày khó đoạn trừ hơn. Ta phải tốn nhiều công sức để hàn gắn giải quyết, con đường tu tập cũng phải vất vả hơn, phương pháp hóa giải cũng phải tinh vi đa chiều.
Tai của ta từ xưa đến nay thích nghe lời ngon tiếng ngọt nịnh hót nỉ non, thích nghe những âm thanh du dương ngọt ngào trìu mến, khi được nghe chánh pháp thì lại lơ đễnh mỏi mệt biếng lười, ngáp ngắn ngáp dài không chuyên tâm suy xét. Khi bản ngã được vỗ về chiều chuộng vuốt ve, ta lại đắc ý thỏa lòng dương dương tự đắc, hãnh diện sung sướng khi tham vọng được đáp ứng đền bù. Ta cắm đầu chúi mũi chạy theo lời khen ngợi lời tán dương ngất ngây, khiến ta càng ngày càng lún càng sâu, trôi theo âm thanh ngôn ngữ tung hô gọi mời. Ta đi trong hoàng hôn với bóng tối dày đặc phủ vây, sống hả dạ ào ạt với hoang tưởng hư dối mà ta chẳng hề hay biết. Ta chạy theo biến động chập chùng mà không hề rõ tác nhân, ta chất chứa muôn vạn sầu đau mà chẳng biết lối ra nẻo về. Ta sống bầm dập ngất ngư, chết dần chết mòn mà vẫn chưa biết vì sao tại sao, có phải tại ta do ta vì ta lỗi tại ta mọi đàng?
Những lời thẳng thắn khuyên bảo chỉ bày cho dù có khó nghe nhưng là lời nhắc nhở chân tình, những lời nói ngay nói thật dù ta không chịu nghe nhưng đó là lời thật sự thật việc thật. Những lời nói đong đầy tỉnh thức bi mẫn vẫn là điều ta khó gặp khó nghe, ta phải biết trân quý giữ gìn nếu ta muốn nương vào để thoát ly khổ não. Những lời nói không làm thoả mãn cho bản ngã của ta, nhưng lại làm cho cái tôi của mình nhỏ bé lại, những lời chân thật đôi khi làm cho ta khó chịu, nhưng đó mới là lời nói không hề dối gạt. Những lời dạy của bậc cổ đức đến từ nội tâm hỷ lạc chân lý như thật, ta vững niềm tin quyết lòng nghe theo vâng giữ cho trọn.
Khi ta bị người khác chê bai dù đúng hay sai, thật lòng hay giả dối, ta cảm thấy bản ngã bị xói mòn tổn thương, lập tức ta đùng đùng nổi giận, lửa sân hận nổi lên đốt thiêu tất cả hạt giống lành mà ta tốn bao công sức tạo lập. Ở đâu và nhìn đâu ta đều thấy có sự đối kháng biến động nghịch lại, sẵn sàng đạp ta xuống hố thẳm. Ta mất trắng tay bơ vơ lạc lõng phải làm lại từ đầu, nhưng bao giờ và lúc nào mới được đủ đầy ta vẫn chưa làm sao trả lời được.
Thật ra hơn ai hết ta phải nỗ lực để hoàn thiện chính mình, làm mới thân tâm nếp sống suy nghĩ, hơn là lo sợ nghi ngờ kẻ khác tước đoạt xía vô chuyện của mình, cái nghe của ta nhiều khi nó lại lừa dối chính ta. Có lẽ bản chất bất thiện ở trong ta lúc nào cũng mạnh mẽ nên ta thường xuyên bị quật ngã. Tâm ta liên tục bất an lo lắng, đẩy xô ta vào chỗ khốn cùng quẫn trí, riết rồi ta sống trong sự hoang tưởng khiến ta khổ đau buồn phiền. Những lời a dua nịnh hót êm dịu du dương ngọt ngào thánh thót, cứ thế rót vào tai làm ta mê mẩn tâm trí điên đảo thần hồn, bỏ mất bản tâm không kịp suy xét và hậu quả là khổ não chất đầy.
Ta suy nghĩ quá nhiều lo sợ thái quá, và quen sống với âm thanh ngôn ngữ tung hô gọi mời, nhưng ta quên mất một điều, khi thích thì thiên hạ nâng lên không thích thì kéo xuống, ta chạy theo đó nên ta khổ đau lo lắng là phải. Muốn thoát ra ta chuyển đổi vị trí không dùng đôi tai để nghe, thực tập lắng nghe bằng chính trái tim và cõi lòng chân thật của mình, lánh xa những gì gây nguy hại tác động, bảo vệ và gìn giữ tâm ý của mình bằng chất liệu cao cả của chánh pháp.
Vua Trần Thái Tông còn hướng dẫn cho ta phương pháp để nghe và cùng nhau phát lòng hướng nguyện.
Đệ tử chúng con, chí tâm phát nguyện:
“Một nguyện nghe tiếng, liền được ngộ đạo,
Hai nguyện nghe khổ, sớm lo tu hành,
Ba nguyện nghe suốt, khắp bốn phương cõi,
Bốn nguyện nghe vui, thấu đạt vô sanh,
Năm nguyện lời tà, tai không dính mắt,
Sáu nguyện chánh ngữ, chóng nghe rành rõ,
Bảy nguyện tiếng pháp, thường được gần gũi,
Tám nguyện trống pháp, thường lắng tai nghe,
Chín nguyện Quán Âm, cùng được tay nắm,
Mười nguyện Khánh Hỷ, đồng đẳng nổi danh,
Nguyện thứ mười một, người điếc phá chướng,
Và nguyện mười hai, tai hằng thông suốt”.
Sám Hối Sáu Căn, Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Cái nghe của ta bây giờ đã được soi sáng thông suốt, thay vì chỉ nghe những điều làm che mờ chơn tánh, ta tập nghe nỗi lòng của kẻ khác, tiếng kêu thương của chúng sanh với tất cả sự bình tâm lắng đọng. Ta nghe từng nhịp thở từng tiếng kêu cứu, từng nỗi đau sự khổ mà chúng sanh đang gánh chịu. Nghe một cách yêu thương trọn vẹn những buồn vui của kiếp nhân sinh, để rồi tự mình quán chiếu chiêm nghiệm, tự mình nỗ lực vượt thoát, vươn lên xoa dịu nỗi thống khổ của tha nhân, bằng sự tu tập đủ đầy và phát khởi bi nguyện cứu độ.
Biết một cách rõ ràng, hiểu một cách trọn vẹn, lắng nghe một cách hoan hỷ, thực hành một cách chu toàn, tức là ta đã phần nào giải quyết được những lụy phiền bế tắc do cái nghe mang lại. Quá khứ tương lai hiện tại điệp khúc của vô thường bỗng vụt bay mất lối, tiếng của quá khứ dội về tương lai nghe đâu đây mơ hồ niềm hy vọng, nghe đâu đó tiếc nuối bâng khuâng. Khi ta còn ở vào cái phút giây trôi dạt, khi ta đứng giữa hai bờ hai lối, là khi ta đi hoang sầu vạn kiếp, khi ta một lần lỡ bước uổng cả một đời. Điều gì cũng vậy một khi chiếm hữu sở đắc thì sẽ trở thành niềm ray rứt khôn nguôi, có phải tại ta nắm vào chứ không chịu buông, ta ôm vào chứ không chịu bỏ, ta nghe hoài không biết chán. Tiếng lòng nỉ non ngọt lịm đến tận tim gan, tiếng nức nở trong đêm trường cô quạnh, tiếng chim gọi đàn về tổ ấm, tiếng ly biệt trong dòng chảy của vô thường, tiếng thác đổ trên trời không đọng lại. Tất cả quyện vào tâm thức cuốn hút lấy ta, đưa ta đi từ buồn phiền này đến khổ đau khác, tại ta bỏ công ra sức nắm giữ chiếm hữu cho riêng mình, những xúc cảm cùng với bản năng quấy phá, cảnh duyên tha hồ tác động quyện chặt vào tâm, qua lại tới lui theo vòng luẩn quẩn bất tận.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ tu tập tánh nghe mà đạt được “nhĩ căn viên thông” vô ngại thông suốt tường tận, tánh tướng năng sở các pháp. Kinh văn nói:
“Lúc bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát dưới chân đức Phật, rồi bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn, con nhớ vào thời quá khứ hằng hà sa kiếp, lúc ấy có đức Phật xuất hiện ở đời, danh hiệu là Quán Thế Âm. Con ở trước đức Phật đó phát tâm bồ đề. Ngài dạy con từ nghe, tư duy, tu tập thể nhập chánh định.
Ban đầu, con ở trong tánh nghe vào được dòng viên thông thì không còn trạng thái sở văn nữa, tướng sở nhập cũng vắng lặng, hai trạng thái động tĩnh rõ ràng chẳng còn sanh. Trạng thái như vậy tăng dần, các tướng năng văn, sở văn đều dứt sạch.
Không dừng trụ trong chỗ dứt sạch năng văn, sở văn, con đạt đến năng giác sở giác đều vắng lặng. Không giác viên mãn tột bậc thì các tướng năng không và sở không đều tịch diệt. Sinh diệt đã diệt thì bản tính tịch diệt hiện tiền.
Bỗng nhiên con vượt ra ngoài thế gian và xuất thế gian, khắp mười phương một thể sáng suốt viên mãn hiển bày, và con đạt được hai cảnh giới thù thắng.
Một là, trên hợp với bổn diệu giác tâm của mười phương chư Phật và cùng Phật Như Lai đồng một từ lực.
Hai là, dưới hợp với tất cả chúng sinh trong lục đạo khắp mười phương và cùng với chúng sinh đồng một bi ngưởng.”
Khi ta tu tập thật giỏi, nâng được cái nghe từ phàm phu lên bậc thánh, vượt qua mọi giới hạn dừng trụ, không còn biên cương ranh giới chủng tộc chúng sinh, tất cả hoà điệu trong tận cùng muôn một, vựt dậy thắp sáng tánh nghe bằng cách nghe từ bản tâm trong tận cõi lòng sâu xa chân thật, những vi diệu cứ thế tuôn trào biến thành năng lực vô biên hạnh nguyện cao cả. Một khi từ trong bản thể chân như lưu xuất, thì tất cả trở nên thông suốt tường tận, không còn do dự đắn đo lo sợ bị tước đoạt.
Một khi ta nhập vào được chánh định, tâm ta sẽ trở nên vững chãi kiên cường, không gì lay chuyển xô ngã được, những âm thanh và cái nghe không phù hợp với chân lý đều bị đốt cháy thiêu hủy. Mọi sự ngăn ngại vướng mắc lầm chấp, không còn kẽ hở nhảy vào gây rối, không còn nơi để dung thân bén mảng, tất cả đều bị ánh sáng tuyệt luân của chánh định đẩy bay ra ngoài. Năng sở tánh tướng, tất cả hòa nhập thành một thể nhất như, chỉ còn lại tánh nghe thông suốt vô tận, giải phóng ta ra khỏi trầm luân.
Khi nào ta nghe được như thế tu tập được như vậy, thì cái nghe sẽ trở nên tuyệt vời, thong dong về với chân tánh thường hằng, nhập vào dòng luân chuyển vô tận của bản thể tuyệt nhiên, cái nghe trọn vẹn trong vô cùng không lối, nghe để mà không nghe, nghe để mà cứu độ.
MÙI HƯƠNG GIẢI THOÁT
Trong sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý, có những căn ta thường xuyên xử dụng, cũng có những căn ta ít xử dụng hơn. Ta có thể nhắm mắt lại để không thấy, bịt tai lại để không nghe, im lặng không nói năng, không làm gì cả, dừng mọi suy nghĩ. Ta cũng có thể không thấy, không nghe không biết, không làm, không động đậy, nhưng ta không thể không thở.
Chiếc mũi đã quan trọng hơi thở lại càng quan trọng hơn, khi ta không kiểm soát được hơi thở, lo sợ bồn chồn bất an, bị trầm cảm, lo lắng quá độ, hơi thở hồi hộp rối loạn, đứt đoạn, tim đập nhanh loạn nhịp, máu huyết tăng cao, sẽ làm cho ta dễ bị tai biến mạch máu não, như vậy sẽ khổ một đời. Chỉ một hơi thở, một hơi thôi, nhưng nếu ta không hít vào thở ra được, khí oxy không đưa vào nuôi cơ thể não bộ, lập tức ta chết ngay.
Chiếc mũi, ngoài chức năng chính là hít thở để duy trì sự sống, thì mũi của ta kể ra cũng thật là tài tình. Nó có thể ngửi được những việc ở gần, đánh hơi phát hiện ra những chuyện ở xa. Nó rất thính bén nhạy mẫn cảm, lại phối hợp với ý thức, nên mức độ tưởng tượng dồi dào đa dạng phong phú tinh tế vô cùng.
Thông thường mũi của ta ưa thích những gì thơm tho hương sắc, những gì hấp dẫn gọi mời, quen ngửi mùi hương bất tịnh, những hưng phấn say đắm mê mẩn lòng người. Ngược lại, dị ứng với những mùi nồng nặc hôi thối uế trược, những mùi khó ngửi khó chịu khó thương, làm cho ta xa lánh tránh mau. Cho dù xa hay gần nhưng khi nó đánh hơi phát hiện, khi không bằng lòng bất như ý, không thích không ưa, thì ngoảnh mặt làm ngơ, quay đầu bỏ đi không thèm ngó lại. Những gì tỏa sắc đọng hương, thơm lừng quyến rũ, dù cho vất vả gian nan, cũng ra sức bỏ công nhọc lòng tìm tới.
Những gì làm cho não lòng nức mũi, mê mẩn tâm thần, thì không thể nào quên được, vương vấn đêm ngày gợi nhớ trông mong. Những gì hôi hám, những gì ghê tởm xấu xa, buồn nôn, không thể nào ngửi nổi, thì lại bịt mũi nín thở, chạy nhanh tìm đường trốn tránh. Khi đánh hơi thấy bất lợi cho mình, không hợp không xứng không vừa lòng, thì lại lặng lẽ chuồn êm, tìm cách lánh xa. Nhưng khi ngửi được cơ hội, có lợi có danh, vừa lòng hợp ý, cung phụng bản ngã lớn to, thì lập tức nhào đến không cần gọi mời. Ôi! chiếc mũi của ta thật là tài tình và cũng lắm gian nan, làm cho ta dỡ khóc dỡ cười.
Chiếc mũi dọc dừa khiến bao người thầm mong trộm nhớ, chiếc mũi xinh xinh khiến bao kẻ đợi người chờ. Chiếc mũi cao sang khiến bao người ước ao chiếm hữu. Chiếc mũi dễ thương khiến bao kẻ ngẩn ngơ dệt mộng. Chiếc mũi thanh cao khiến bao người ấp ủ nâng niu. Chiếc mũi người thương kẻ nhớ, có những chiếc mũi không cần gọi tên, không có tên gọi, nhưng để lại trong ta dấu ấn đậm sâu, một đời không quên.
Bên cạnh cái đẹp cái cao sang từ chiếc mũi thì cũng có những chiếc mũi làm cho kẻ khác đắn đo do dự. Chiếc mũi làm đẹp, chiếc mũi thẩm mỹ, chiếc mũi được bàn tay con người can thiệp. Ngoài ra người ta còn viện dẫn nhiều lý do, đặt ra tiêu chuẩn thế nào là chiếc mũi đẹp, cũng vì chạy theo cái đẹp, ta làm cho mũi đau tâm khổ. Lại có những chiếc mũi mà những người tin vào tướng số lo lắng ngại ngùng, cũng có đủ thứ đủ kiểu lắm trò cho chiếc mũi. Khi mũi bị dị ứng, nước mũi nước mắt tuôn trào, hoặc vì lý do sức khỏe có sự can thiệp của y khoa, phải thông qua mũi, dây nhợ tùm lum, làm cho ta chần chừ suy nghĩ, xót xa đắng lòng.
Ngửi mùi hương của nhan sắc, những in dấu trên thân thể, những đọng lại trên tóc trên da thịt, những dư âm hương vị của nước hoa, của phấn son xiêm y lụa là, vẻ đẹp say sưa ngây ngất còn đọng lại đâu đây. Mùi quyến rũ của người khác phái, dáng vẻ bắt mắt đáng yêu của ai đó, tất cả cứ thế đọng lại trong khứu giác, thấm vào trong tim, lòng ngất ngây, mũi phơi phới, hương thoang thoảng, vương vấn vấn vương, chẳng biết lúc nào mới buông bỏ xuống được.
Khi mũi dị ứng, chẳng thơm tho, thì tâm ta theo đó lại càng không thích, khó chịu chẳng ưa, nhưng khi đã quen hơi quen mùi, quen chỗ quen nơi, thì lại lưu luyến đắm say, khắc dạ để tâm. Khi ta vận dụng đến năng khiếu khác, xoay chiều đổi hướng, không khéo thì ý thức xen vào gây lũng đoạn, sai sử so sánh phân biệt. Mọi chuyện mọi thứ mọi việc, dù xa hay gần, thời gian không gian, lớn hay nhỏ, những gì xảy ra, có liên quan đến hay không. Một khi mũi đánh hơi phát hiện, cọng với mức độ tưởng tượng dồi dào, phóng đại nâng cao, sự việc sẽ được viện dẫn phân tích dưới mọi góc độ, tùy vào sự phán đoán chủ quan nhiều hay ít.
Ở vào thời đại thông tin mạng lưới toàn cầu, khả năng đánh hơi của mũi lại vô cùng tinh vi đa dạng, lại thêm ta vận dụng tối đa các căn, suy diễn dẫn dắt, nắm bắt lung tung, bày trò dẫn đưa lạc lối, làm sụp đổ lung lay mọi thứ, rối bời rối bong đưa đến nguy hại khôn lường. Nó lắm việc nhiều chuyện, nhập nhằng lẫn lộn, đánh hơi quá khứ hiện tại tương lai, vượt thời gian không gian, ngửi được mọi thứ chung quanh cho dù không nghe không thấy. Mức độ tưởng tượng thâm sâu, nắm bắt tức thì, lập kế bày mưu, kẻ hứng người đưa, giấu mặt đặt tên, thật lòng hiếm gặp, hỉ hả tung hô, quyết lòng chiếm đoạt, nhanh chân trốn chạy. Chỉ cần vuốt ve bản ngã, thỏa mãn bản năng là xong, gợi óc tò mò là được, đáp án đúng sai không cần quan tâm, không kể hậu quả ra sao, lợi hại tốt xấu mặc kệ, nhẫn tâm vô tình.
Thật ra, nếu chỉ là mùi hương thơm tho hay hôi thối, tự nó tỏa ra lan đến, ngửi chỉ để mà ngửi, chỉ làm tròn chức năng thông thường của nó, ta không tác ý móng tâm, thì làm sao có thể gây phiền gây khổ, thì làm gì nên tội nên tình? Nhưng khổ một nỗi, lỗi tại ta mọi đàng, do tâm thức của ta tương tác với cảnh duyên, khởi lên muôn ngàn sai biệt, chấp vào níu lại không chịu để yên. Nên khiến cho ta đắm nhiễm si mê dại khờ, mới chìm mới lận đận nơi sông mê bể ái, luân hồi sanh tử dạo quanh lối mộng.
Thương ghét, tham ái, mê mẩn đắm say, nếu không chuyển hóa buông xuống bỏ đi, quyết lòng rời xa vượt thoát, thì lận đận lại càng lận đận, khổ đau lại càng khổ đau, đau dài dài đau mãi mãi. Đã đến lúc ta phải hít thật sâu thật lâu, để cho bình an thư thái trú ngụ, để cho buồng phổi đầy ắp sự trong lành, đẩy đưa uế trược ra ngoài, thường xuyên giữ tâm thong thả, thở ra thở vào thật trọn vẹn tốt đẹp, làm mới chính mình cho được rạng rỡ quang huy.
Tất cả đều tùy vào trạng thái tâm sinh lý, hỷ nộ ái ố, những vui buồn bất chợt, những được mất hơn thua, đều làm cho hơi thở đổi thay, nhanh chậm thất thường, biểu lộ trạng thái bất an xâm chiếm. Khi ta khó thở, nặng nề dồn dập, khò khè, ta phải lưu ý đến đường hô hấp, nhớ quan tâm đến sức khỏe của mình. Môi trường sống của ta có được trong lành ít ô nhiễm, thì mũi ít bị dị ứng, ít nhiễm bệnh, những bệnh về mũi do mũi gây ra không ít thì nhiều sẽ ảnh hưởng đến lá phổi của ta. Nhiều khi ta lạm dụng quá mức, hít vào những thứ ô nhiễm độc hại, những thứ làm cho ta mê mẩn tâm thần, tâm ý dẫn dắt sai lệch, nghĩ tưởng quá nhiều, biến tướng biến chất, đảo lộn chức năng, đều gây tổn hại cho thân tâm, ta phải xem xét cho thật kỹ càng, chớ đừng đụng vào dính vào.
Cuộc sống của ta lúc nào cũng bị vô thường chi phối tác động, đến một ngày nào đó bệnh tật réo gọi, mắt ta mờ không thấy, tai ta không còn nghe được, miệng ta không đưa thức ăn vào được, phải nhờ đến ống đến dây, thân ta nằm bất động phải nương tựa vào người khác, dựa dẫm vào y khoa, đầu óc ta không còn minh mẫn. Dù sống lay lắt nhưng ta vẫn chưa chết được, nhưng khi mũi ta không thở vào dù chỉ một hơi, ta chết ngay tức khắc. Dù vậy, mấy ai trong chúng ta ra đi nhẹ nhàng, giã từ cuộc chơi mà không vấn vương, đành lòng ra đi, cam chịu mà đi, không bị nghiệp quả hành hạ?
Ta không thể cứ mãi ở đó để rồi than thân trách phận, đổ thừa cho nghiệp quả số phận. Nghiệp quả tốt hay xấu đều do ta tác tạo, quả lành hay ác cũng đều do ta gây nên, ta phải cưu mang nhận lãnh, chẳng có ai thế vào gánh dùm. Khi nào còn tác nhân, tác ý thì còn phải tác quả tác nghiệp, khi nào tác nhân tốt tác ý thiện thì được quả lành ý tốt, rõ ràng như thế không hề sai chạy.
Thông thường tại ta chỉ lo o bế nâng niu sáu tên giặc, không chịu chuyển hóa thành bạn đồng hành tri kỷ, không biết cách chế ngự phòng ngừa, không nỗ lực tu tập, không thực hành theo chánh pháp, mới khiến cho ta mãi trầm luân trôi dạt trong sáu cõi ba đường. Từ trước đến nay đêm ngày ta đau khổ, ray rứt phiền hà, chán chường lo lắng, cũng do sáu tên giặc đó tác yêu tác quái, rủ rê mê hoặc, khiến ta cắm đầu chúi mũi chạy theo, không biết đường ngay lối thẳng, không rõ nguồn cơn, không biết đâu là bờ mê bến ngộ lối về.
Ta mua vui trong chốc lát, ta tìm quên trong phút giây, ta lỡ dại trong sát na, nhưng hậu quả thì vô cùng nguy hại về lâu về dài. Ta quyết chí không đụng vào hít vào, không ngửi qua những chất độc hại, những thứ gây nghiện, những thứ làm cho ta mê mẩn ngất ngây, những gì làm cho trí tuệ lu mờ, những thứ làm cho thần trí đảo điên, những gì làm ô tâm nhiễm tánh, những thứ khiến cho ta si mê dại khờ đớn đau. Ta phải lánh xa trốn thật kỹ không được mó vào, ta phải lắc đầu khước từ chạy cho lẹ cho nhanh đừng để dính phải, đừng để hại ta phiền người, một đời đau khổ.
Hơi thở cực kỳ quan trọng cho sự sống của ta, nương vào hơi thở để ta tu tập cũng quan trọng không kém. Thay vì tiếp tục để cho mũi đánh hơi nhầm lẫn, phát hiện bừa bãi, dẫn ta đi sai đường lạc lối, bây giờ ta biết gìn giữ hơi thở, “thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười”. Ta thực tập trong từng phút giây, quan sát hơi thở, nhận biết hơi thở vào ra, tâm ta tinh tường thấu đáo, an lành tỉnh thức. Chỉ khi đó và lúc ấy ta mới an nhiên sống vui sống đẹp, cuộc đời mới trở nên đáng yêu đáng quý, ta mới thong dong thảnh thơi trong mọi nghĩ suy tác tạo, được vậy thì còn gì quý giá bằng.
Cũng nhờ chiếc mũi này mà ta biết gìn giữ hơi thở, kéo tâm lang thang của ta về một mối, sáng soi cõi lòng tấc dạ. “Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra.” Nhờ vậy con đường đi đến giác ngộ thênh thang lộng gió, từng bước đi hoa cỏ đón chào, đời sống ta luôn được trân trọng cao đẹp an lành, khắp chốn mọi nơi.
Chiếc mũi ngửi mùi hương giải thoát, không vướng cảnh vướng người, hít vào tràn ngập yêu thương, thở ra tâm lành ban trãi. Chiếc mũi diệu kỳ, đánh hơi được luân hồi nhân quả để tránh, phát hiện phiền não khổ đau để một lòng cầu đạo vô thượng. Chiếc mũi tuyệt vời ngửi được hương thơm của giác ngộ, phát hiện ra những ngăn che bám víu vướng bận để tiêu trừ. Chiếc mũi diệu vợi cao cao, là khi căn, trần, thức, không còn làm hề hấn, thênh thang rộng mở trên mọi đi về. Chiếc mũi cao quý, thoát ra ngoài hương sắc nhiễm ô, vượt khỏi càn khôn về với vô tận miên trường.
Trong sách Khóa Hư Lục, phần Sám Hối Sáu Căn được vua Trần Thái Tông (1218-1277) sáng tác có đoạn đề cập về mũi như sau:
Nghiệp căn Mũi là:
“Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào,
Chẳng thích chơn hương, năm phần thanh tịnh.
Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi,
Giới định huân hương, chưa từng để mũi.
Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài,
Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói.
Theo dõi hương trần, Long thần chẳng nể,
Chỉ thích mùi xằng, trọn không chán mỏi.
Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa,
Cây giác hoa tâm, xây đi không đoái.
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau,
Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.
Chẳng ngại tanh hôi, không kiêng ngũ vị,
Mê mãi không nghĩ, như lợn nằm chuồng.
Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đờm vàng,
Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch.
Hoặc say nằm ngủ, điện Phật phòng Tăng,
Hai mũi thở hơi, xông kinh nhơ tượng.
Ngửi sen thành trộm, nghe mùi động tâm,
Không biết không hay, đều do nghiệp mũi,
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Sau khi mạng chung, đọa ba đường khổ.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người,
Dù được làm người, quả báo bệnh mũi.
Nếu không sám hối khó được tiêu trừ
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối”.
Đệ tử chúng con, chí tâm phát nguyện:
“Một nguyện ra hết, tà kiến loạn tâm,
Hai nguyện nhận vào, tuệ hương xông ướp,
Ba nguyện đóng thành, cửa vô lậu nghiệp,
Bốn nguyện ho tan, trần cấu hữu duyên,
Năm nguyện lôi về, con đường tam bảo,
Sáu nguyện ngáp nát, bốn loài sanh linh,
Bảy nguyện thở trừ, các chướng phiền não,
Tám nguyện ngửi được, hoa tươi giác ngộ,
Chín nguyện thường thông, giống các pháp lành,
Mười nguyện hằng lấp, nhân ngũ vị tân,
Nguyện thứ mười một, về dạo biển tánh,
Và nguyện mười hai, ra khỏi bến mê”.
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Ta vượt khỏi sông mê bể ái, về dạo biển tánh ngời trong sáng soi một cõi, là khi ta đem hết tâm can, ngừng mọi lang thang đếm bước, giật mình tỉnh mộng, quán chiếu tư duy tròn đầy. Khi nào thật sự và chính thức, ngửi được mùi hương an lành của tự tâm lan tỏa, của con tim đong đầy yêu thương nhân ái, của tâm thức ngào ngạt hương thơm của giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hương, đó mới là chiếc mũi tuyệt vời, vượt ra ngoài thời gian lẫn không gian.
Hương thơm tinh khiết của giới đức, hương cao đẹp của đức hạnh, hương bất diệt của từ bi trí tuệ, là do mình biết vâng phục gìn giữ trân trọng những giá trị cao quý. Những gì làm cho nhân phẩm của mình được hoàn thiện thanh cao, tâm tư của mình được thăng hoa tươi đẹp, một lòng một dạ vâng giữ thực hành, hết lòng trọn kiếp tu tập, thành tựu đạo giác ngộ giải thoát. Còn đó, hương thơm một cõi, ra tay cứu độ, dấn bước lên đường, nhập vào dòng chuyển lưu mà lúc nào cũng tự tại, mang lại an lạc cho mình và tha nhân.
Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, bản dịch của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đoạn:
"Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát.
"Làm thế nào để phát triển và thực tập liên tục phép quán niệm hơi thở, để phép này mang lại những thành quả và lợi lạc lớn?
“Này đây, quý vị khất sĩ! Người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng và đặt vững chánh niệm trước mặt mình. Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra.
1. Thở vào một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.
2. Thở vào một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi ngắn.
3. Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập như thế.
4. Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
5. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Người ấy thực tập như thế.
6. Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế.
7. Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Người ấy thực tập như thế.
8. Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
9. Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta. Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta. Người ấy thực tập như thế.
10. Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Người ấy thực tập như thế.
11. Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Người ấy thực tập như thế.
12. Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Người ấy thực tập như thế.
13. Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
14. Ta đang thở vào và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
15. Ta đang thở vào và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
16. Ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ. Ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ. Người ấy thực tập như thế.”
Ta tu tập cho thật vững chãi, tâm bình an cõi lòng lắng đọng, bỏ buông thư thả, thấy như là không thấy, nghe mà không nghe, làm mà không làm, không trụ bám níu kéo. Mũi ngửi mà tâm không vướng, thở vào ra tỉnh thức trên từng tư duy tác tạo, mùi thơm hay thối cũng chẳng bận lòng, thân tâm luôn thanh tịnh, thì còn gì cao quý bằng.
Chiếc mũi của ta, hơi thở của riêng mình, con đường ta đi thênh thang thông suốt, ý ta tĩnh lặng tròn đầy, tâm ta trong sáng lặng yên, mũi ta thở ra vào đầy hương giải thoát. Chỉ có hương thơm của đạo hạnh, giới đức, trí tuệ từ bi, an lạc, mới tỏa thơm tinh khiết lồng lộng thường hằng trong cõi nhân sinh. Thở vào, thở ra, vi diệu, tuyệt vời.
BỐN NGHIỆP THIỆN LÀNH CỦA MIỆNG
Trong sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng lưỡi, thân, ý, ba căn đầu tiên thường không có chữ nghiệp theo sau, chỉ có ba căn còn lại mới kèm theo chữ nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, hay còn gọi là tam nghiệp. Điều này thể hiện tầm quan trọng của việc gìn giữ tác nghiệp, tạo nghiệp cũng như sự nhận lãnh trách nhiệm nhân quả một cách công bình và sòng phẳng. Từ suy nghĩ cho đến hành động ngôn ngữ nói năng, phần nhiều chúng ta để cho bản năng và cảm tính không thật dẫn dắt lôi kéo, tham sân si đưa đường chỉ lối, khiến ta chìm đắm trong phiền muộn, bất an, đau khổ. Hơn nửa thân, miệng, ý còn có sự liên đới, tương quan tương tác đến đối tượng chúng sanh, gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, cách này hay cách nọ đến với người khác. Điều thiện hay bất thiện, niềm vui hay nỗi khổ, tốt hay xấu, lợi hay hại, tích cực hay tiêu cực. Tất cả đều do ta có hết lòng bình tâm nhận diện, đổi thay chuyển hóa và có đủ năng lực cùng sức mạnh nội tâm quyết lòng ngăn ngừa gìn giữ đừng để cho ác nghiệp điều xấu phát sinh. Chỉ cần chúng ta tu tập thân, khẩu, ý cho thật trọn vẹn tốt đẹp, thường xuyên tỉnh thức trong mọi tư duy hành động tác tạo nói năng, thì con đường để đi đến an lạc giác ngộ sẽ luôn cận kề.
Trong năm giới Đức Phật chế ra cho hàng Phật Tử, (không được sát sanh, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu, những chất gây nghiện) thì hai giới sau cùng đều liên quan đến miệng lưỡi. Điều đó thể hiện giá trị tích cực của việc phòng hộ ngăn ngừa gìn giữ khẩu nghiệp, không gây tạo ác nghiệp, thường xuyên tăng trưởng thiện nghiệp. Đó cũng là phương cách nâng cao phẩm chất đạo đức hoàn thiện bản thân, làm tốt đẹp cho gia đình và xã hội, mang lại lợi lạc yên vui cho mình và kẻ khác.
Bốn nghiệp của miệng gồm có: nói dối, nói lời chia rẽ, nói nặng lời, nói lời vô nghĩa. Trong ngôn ngữ nói năng hay ngôn ngữ cơ thể, thì những tỏ bày trao đổi, chia xẻ cảm thông, truyền tải tín hiệu suy nghĩ cảm xúc. Nếu chúng ta mải mê chạy theo thói hư tật xấu, chạy theo cảm xúc cảm tính lệch lạc, không chịu từ bỏ những suy nghĩ lời nói bất thiện xấu ác, thiếu sự tỉnh thức cảm thông hiểu biết, để cho ác nghiệp lên ngôi không kiềm chế giới hạn, sẽ dẫn đến những căng thẳng quá đà gây hệ quả nguy hại, đau khổ phiền muộn bất an. Từ bỏ những lời nói hư dối không thật, những lời gây chia rẽ phiền muộn, những lời nói gây thương tổn nhói đau đâm vào tim vào lòng kẻ khác, những lời nói thiếu chuẩn mực vô nghĩa không phù hợp không thích nghi không lựa lời. Chúng ta tập cách lắng nghe trong sự yêu thương tâm lành ban trãi, nghe trong sự cảm thông chia xẻ, nghe nhiều hơn nói, chỉ nói trong chánh niệm tỉnh giác, những gì cần nói nên nói và nói vừa đủ.
Miệng lưỡi ở cùng sống chung nương tựa với nhau nhưng lại có những chức năng riêng. Lưỡi dùng để “nếm, nhai, nuốt, nói” trong bốn chức năng đó thì nói lại là vấn đề gây nhiều tranh cãi và tạo nghiệp nhiều nhất, nếm nhai thuộc về vị giác. Miệng nơi bắt đầu tiếp nhận thức ăn nước uống, nhai nghiền nát, đưa xuống hệ tiêu hóa. Nhưng phần nhiều từ nơi miệng lưỡi, có những điều tốt đẹp thiện lành, đem lại niềm vui cho kẻ khác, nhưng cũng gây biết bao hệ lụy đau khổ phiền não cho mình cho người. Từ sự phân biệt đắm nhiễm đam mê món ăn chất uống vị giác ngon dỡ, cho đến ngôn ngữ nói năng xấu ác bất thiện, dối trá nặng lời đâm thọc phê phán đánh giá ngộ nhận. Đêm ngày luôn phiên tác tạo, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến người khác, gây phiền lụy cho mình và đối tượng.
Người hiểu biết tỉnh thức, từ nơi khẩu nghiệp từng lời từng chữ từng ngữ ngôn nở hoa giác ngộ, đến bằng trái tim nhân ái, tấm lòng đong đầy chân tình thương yêu cao cả. Tâm lành đó sự suy nghĩ hành động tác tạo đó, với cõi lòng bi mẫn rộng lớn bao la, ban trải khắp cùng cho tha nhân và chúng sanh. Một khi giá trị và phẩm chất tốt đẹp được nâng cao, thân tâm chất chứa nghiệp quả thiện lành thì tự nhiên sống thở trong sự phủ vây của giác ngộ hương thơm của giải thoát, an trú trong sự an lạc. Tự bản chất đã là thiện là lành là tốt đẹp từ ái đủ đầy, thì phiền não thị phi bất thiện những điều không như ý khó mà quấy rối được. Một con người thường sống với điều thiện việc lành, thì con người đó không hề nghĩ đến điều ác, không làm những việc xấu, luôn giữ gìn tâm ý được trong sáng thanh tịnh, an ổn trong mọi tư duy hành động nói năng. Nếu chúng ta thường xuyên gìn giữ phát huy cái tốt điều đẹp việc thiện lành thì những điều ác cái xấu sẽ không có dịp trỗi dậy gây rối, sẽ không có cơ hội gây phiền muộn đau khổ. Thay vì chúng ta chạy theo thói hư tật xấu, để cho những quán tính cảm tính tai hại chi phối lộng hành, tác tạo nghiệp quả bất thiện từ nơi miệng lưỡi. Ngay từ bây giờ chúng ta phải thay đổi làm mới chuyển hóa, thường xuyên tăng trưởng tích chứa điều tốt đẹp thiện lành.
1. Chúng ta phải nói thật nói đúng với sự thật, những gì của sự thật những gì thuộc về sự thật. Trong ta chỉ có sự thật, chất chứa sự thật, sống thật với lòng mình tâm mình, gìn giữ sự chân thật từ con tim đến cõi lòng. Nói năng phù hợp với chánh pháp, đúng với bản chất như thật của từng vấn đề. Nếu phải nói cần thiết để nói, chỉ nói những lời ái ngữ, những lời cao quý hay đẹp, lợi mình lợi người, mang lại niềm vui an ổn hạnh phúc cho kẻ khác. Nói bằng trái tim bằng lòng từ bi, tâm tư luôn hoan hỷ nụ cười chân thật nở rộ trên môi. Chúng ta biết học hạnh lắng nghe, kiệm lời bớt nói cẩn trọng khi nói, tỉnh thức khi nói năng, sẽ không bị phiền não thị phi che mờ gây rối. Thay vì cố nói năng dành diễn đạt, ta dễ đánh mất sự kiểm soát cần thiết và không làm chủ được lời nói, sẽ gây bất an nguy hại cho bản thân và người khác. Ta chọn cách tịnh khẩu, giảm thiểu nói năng, đắn đo cẩn trọng từng lời, chỉ nói khi thật sự cần nói những gì cần thiết để phải diễn đạt bày tỏ. Ta cần tư duy một điều, chắc phải có lý do quan trọng nào đó cho nên chư tổ thường dạy “để cho cửa miệng đóng mốc”, nhiều khi không nói làm thinh nhưng lại cảm thông thấu hiểu giá trị còn hơn ngàn lời, chỉ cần lắng nghe san sẻ sớt chia ban trãi đôi khi ý nghĩa gấp vạn lần nói năng bày tỏ.
2. Chiếc lưỡi hoa sen tinh khiết mang hương sắc tươi đẹp đến cho đời cho tha nhân, những lời tỉnh thức đến từ tâm thiện lành lúc nào và bao giờ cũng có giá trị cao cả vượt thời gian. Thường sống trong sự hòa hợp thanh tịnh, nối kết tình yêu thương chân thật lý tưởng giải thoát trong mọi tư duy tác tạo. Sống trong tinh thần tương kính hòa thuận không gây thương tổn chia rẽ làm mất hòa khí tiêu tan niềm tin. Hạnh phúc và an lạc thật sự chỉ có mặt khi ta không hề gây hại, sống trong sự bình đẳng nhu hòa, tương kính tương thuận thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.
3. Chỉ có những lời nói lành lời nói đẹp xuất hiện trong nếp sống sự suy nghĩ của ta mà thôi. Làm ngược lại với lời nói ác, những lời nói dữ dằn khó chịu khó ưa, nói nặng lời, tức là thể hiện điều thiện việc lành lời hay ý đẹp rồi vậy. Những lời nói ý nghĩa cao đẹp, có hoa thơm cỏ lạ, có hương vị giải thoát chứa đầy lòng bi mẫn, đong đầy năng lượng giác ngộ. Một con người có được sự cao quý thánh thiện đáng được xưng tụng tán dương, là lúc nào và bao giờ hể một khi mở miệng thì sẽ mang lại niềm vui xoa dịu nỗi khổ cho kẻ khác, không nặng lời với một ai, nói lời thật lòng chân chất dễ thương dễ nghe dễ mến, chứa đầy tuệ giác đem lại hạnh phúc bình an cho tất cả. Một con người cao cả là hết lòng phụng sự tha nhân, chỉ nói những lời phát xuất từ lòng từ bi bao la, những lời đúng với chánh pháp chánh ngữ. Chúng ta đừng để, đừng làm đừng mang đến sự phiền muộn đau khổ bất an cho bất cứ một ai dù vô tình hay cố ý, đều dẫn đến hậu quả tai hại do những lời nói hung ác nặng nề khó nghe khó cảm.
4. Những lời chân thật từ tốn hòa ái hay đẹp mang đầy ý nghĩa là những lời cần nhất dễ thương nhất trong thế giới thống khổ hôm nay. Những lời nói từ nơi con tim đong đầy lòng bi mẫn còn là suối nguồn tuệ giác vi diệu, xoa dịu vỗ về san sẻ sớt chia niềm đau nỗi khổ. Chúng ta cần chấm dứt loại bỏ hoàn toàn những lời thị phi vô nghĩa xấu ác, để tâm hồn luôn được lành mạnh thanh thản, nhân cách và cuộc sống tăng phần giá trị đem lại lợi lạc cho mình và cho người.
Trong Kinh Trung Bộ, bài kinh số 41. Đức Phật đề cập đến Bốn thiện nghiệp của miệng như sau:
Bốn thiện nghiệp của khẩu:
1) “Có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết", nếu không biết, người ấy nói : "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.
2) Từ bỏ nói "hai lưỡi", tránh xa nói "hai lưỡi". Nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói với những người kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp,thích thú hòa hợp, nói đến những lời đưa đến hòa hợp.
3) Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hoà, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy.
4) Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi”.
Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch
Ta có thể tạm chia ra làm hai mặt thiện ác tốt xấu của ngôn ngữ lời nói, những lời nói thiện lành hiền từ và những lời nói xấu ác khó nghe. Ngoài những lời nói dối, nói thêu dệt, nói hung ác, nói đôi chiều, còn có vô số những lời nói khó nghe khó cảm không đẹp như: Lời nói không thật, những lời nói gian dối, những lời đầu môi chót lưỡi, những lời gây đau khổ, những lời gièm pha thị phi ly gián, những lời nói đâm thọc hai chiều, chuyện có nói không chuyện không nói có, nghĩ một đường nói một nẻo, những lời mật ngọt, ru ngủ dụ dỗ, những lời chửi bới, chê bai hơn thua, những lời cay nghiệt ác độc... Những lời nói hiền từ dễ thương thì có: Những lời nói từ ái chan chứa tình thương, lời chân thật đầy tình người tình đạo, những lời xuất phát từ con tim lòng bi mẫn, những lời cảm thông thấu hiểu, những lời nói mang lại sự lợi lạc hạnh phúc, lời của chánh pháp, lời tỉnh thức giác ngộ, lời nói nở hoa...
Ngoài ra cũng có một số lời nói mới nghe qua thì rất dễ thương, nhưng ngẫm nghĩ lại thì ngầm chứa những mục đích khác, những lời mị ngữ, những lời nói khéo trau chuốt, những lời nịnh hót, những lời du dương làm êm tai thoả mãn người nghe, lỡ lời hối lỗi muộn màng, những xảo ngữ xảo ngôn, những lời nói êm ái nhẹ nhàng nhưng lại dối gian không thật, mê hoặc ru ngủ lòng người, lợi dụng gây hoang mang, xấc động, lời nói cay nghiệt làm đau thấu tâm can, những lời nói chứa đầy sân tâm thù hận, những lời chia ly xé nát cõi lòng, những lời thách thức gieo rắc sợ hãi, hăm dọa gây lo lắng đau khổ bất an cho kẻ khác, lời thị phi châm biếm gây hấn, giọng điệu cực đoan, những lời đáp trả dối trá và cay nghiệt, lời đường mật gây mê hoặc lòng người, những lời có cánh dụ dỗ... Những lời nói đầy sức thuyết phục lý luận sắc bén hay ho chỉ cốt cho vừa lòng nhau, nhằm dụ dỗ rủ rê thoả mãn toan tính tham vọng mục đích bất thiện. Những lời nói có cánh biết bay biết nhảy múa, lời mật ngọt dễ mến đáng yêu, những lời đầu môi chót lưỡi, những lời chỉ làm cho ta mê mẩn tâm thần chạy theo, đưa ta rơi vào mê lộ. Những lời bùi tai vẽ ra một thiên đường không tưởng, khiến ta đắm đuối lầm lạc nghe theo tin nhầm, những lời ru ngủ nhằm thỏa mãn bản năng xấu ác trong ta.
Dù ở dạng ngôn ngữ nói năng nào thì những biểu thị diễn tả và cách nào đi chăng nữa, thì điều quan trọng nhất vẫn là động cơ bên trong thực sự là gì, mục đích xuất phát từ đâu. Chỉ có chính mình mới thật sự hiểu rõ nó đến từ đâu và do đâu mà thôi. Trong nội tâm ta chất chứa cưu mang điều gì, không nhiều thì ít nó sẽ lộ ra phần nào ở bên ngoài, từ nói năng cho đến suy nghĩ hành động, phần nào phản ảnh được phẩm chất đạo đức và năng lực tu tập trong mỗi chúng ta. Thế nên, nếu trong ta đầy rẫy những thói hư tật xấu, rối rắm phiền hà, nhiễm ô bất tịnh, ác nghiệp che mờ, dù được che dấu kiểu gì phần nào nó cũng hiện ra thông qua ngôn hành. Chúng ta phải tu làm sao như thế nào để cho miệng lưỡi của mình không tạo ác nghiệp nhân xấu?
Cuộc sống hôm nay có quá nhiều hệ lụy khổ đau phần nhiều đều do ác tâm lời nói ngôn ngữ bất thiện mang lại. Những lời nói dối, nói chia rẽ, nói nặng lời, nói vô nghĩa, những lời cố ý hay vô tình, nhưng lại đau thấu tâm can. Những lời tưởng chừng như vô hại lại gây thương tổn xúc phạm, những lời thiếu khôn ngoan, thiếu ái ngữ lòng từ, những lời gian dối mánh mung đâm thọc, thêm thắt dựng chuyện, không đúng với bản chất của sự việc. Chuyện không nói có, chuyện có nói không, lọc lừa dối trá không chân thật, hung ác dữ dằn đay nghiến, thiếu từ bi vắng tình người, gây thương tổn khổ đau phiền não bất an cho kẻ khác. Những điều đó, trở thành một thứ bản năng tập khí quán tính tai hại chất chứa đầy dẫy trong ta, thấm vào trong tim trong huyết quản của ta tự bao giờ, chỉ chờ có dịp có cơ hội là nó tự động phát tiết vung vãi mà không cần biết đến hậu quả và những hệ lụy. Ranh giới thiện và ác xấu và tốt mong manh như đường tơ kẽ tóc, chỉ cần trong tích tắc không kiểm soát, đánh mất sự tỉnh thức là ta đã lạc lối muôn trùng. Do vì ta thường xuyên xử dụng, sở trường đến mức chuyên nghiệp, không phân biệt được đâu là nói chơi hay thật, lẫn lộn thật giả khó phân, hỏi tới hỏi lui nhiều lần thử xem có đúng ý đúng tầm hay không. Cái ác điều xấu cứ thế lên ngôi đẩy lùi chiếm chỗ điều thiện việc lành, nên phải nhận lấy hậu quả đắng cay không vừa lòng bất như ý. Tất cả đều do ta chủ động cưu mang chứa chấp nuôi dưỡng tạo ra, thường xuyên ôm giữ những điều tệ hại, cũng bởi tại ta phó mặc dễ dãi để cho điều ác bất thiện lũng đoạn gây rối. Ta lại để các giác quan nhầm lẫn rủ rê gây hại tha hồ tác yêu tác quái, nếp sống suy nghĩ hành xử không lành mạnh bất thiện thao túng, rời xa nhân quả thiện ác đúng sai, đổ vào tâm ý những nhiễm ô bất tịnh. Nói năng không chừng mực, thiếu vắng ái ngữ lợi hành, rời xa chánh pháp đi ngược lại với chân lý, mất phương lạc hướng. Không chịu suy xét kỹ càng, không nhận chân bản chất thật sự của từng vấn đề, không tỉnh thức trước mọi tư duy ngôn hành tác tạo.
Tâm tính, cảm tính và cảm giác bất thường trôi nỗi lầm lẫn, thi nhau khởi lên muôn vàn trạng huống tình huống tâm cảnh dỡ khóc dỡ cười, đau khổ bất an mất phương lạc lối. Một sự giằng co xâu xé giữa cái ác điều thiện, sự so sánh hơn thiệt phần lợi phần nhiều sẽ thuộc về ai, một sự bán rẻ linh hồn cho cái ác sẵn sàng nhảy vào trục lợi làm chủ dẫn đưa. Sự trỗi dậy lớn mạnh của tâm tánh bất thiện, đang chờ chực trong ta từng phút từng giây, sẵn sàng thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống. Sự thờ ơ vô cảm không chịu trách nhiệm, của một lối sống cách sống tìm vui trong chốc lát, được phút nào hay phút đó, từng bước đẩy chúng ta càng ngày càng rời xa những giá trị của nếp sống đạo đức cần phải có.
Bốn ác nghiệp của khẩu:
1) “Có người vọng ngữ đến chỗ tập hội, chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết". Dầu cho người ấy không biết, người ấy vẫn nói: "Tôi biết"; dầu cho người ấy biết, người ấy vẫn nói: "Tôi không biết"; hay dầu cho người ấy không thấy, người ấy vẫn nói: "Tôi thấy"; hay dầu cho người ấy thấy, người ấy vẫn nói: "Tôi không thấy". Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.
2) Và người ấy là người nói "hai lưỡi". Nghe điều gì ở chỗ này, đi đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại.
3) Và người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy.
4) Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích”. Trung Bộ Kinh, bài kinh số 41, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch
Trong thời buổi tin học internet thông tin toàn cầu, cái miệng chuyên tạo nghiệp của mình, giờ đây lại nhờ có thân nghiệp gánh hộ. Thay vì dùng miệng lưỡi để nói năng trực tiếp bây giờ thông qua đôi tay để chuyên chở truyền tải thông tin tín hiệu ý muốn, nhắn tin trải lòng giãi bày gửi gắm tâm sự nhỏ to, dùng tay để trút nỗi phiền muộn lo lắng trong lòng. Ta thường xuyên xử dụng facebook, email, text message, messenger, instagram, nhấp chuột,...Thành ra khẩu nghiệp bây giờ, có phần tham dự tích cực của thân nghiệp và ý nghiệp, tính chung cọng lại với nhau. Cho dù bằng cách nào hoặc đến từ đâu, thì hậu quả của những hành động tác ý móng tâm thiện ác xấu tốt đó, trực tiếp hay gián tiếp cách này hay cách nọ, ta đều phải gánh lấy nghiệp quả, chịu phần trách nhiệm và không cách nào trốn chạy tháo lui được. Dù ta có che mặt dấu tên, sống ảo sống thật, lướt sóng dạo chơi, tò mò ghé lại, ném đá dấu tay, thay tên đổi họ. Mục đích có là gì và làm gì, xấu tốt lời hay ý đẹp, mua vui giả tạo, những hành động suy nghĩ tác tạo nói năng, việc làm đó nhân quả đó lúc nào cũng đeo bám theo ta như bóng với hình, không chịu bỏ qua không thương lượng đổi chác.
Ở một nơi tạm gọi sống ảo sống thật, nghiện internet đó, ta đầu tư công sức thời gian đổ vào cuộc ảo tìm kiếm sự thỏa mãn, giả danh nửa kín nửa hở, không ai hay chẳng ai biết, ta tha hồ tung hoành ngang dọc, chẳng bận lòng lo lắng, tìm vui lãng quên trong chốc lát, rủ rê thoả mãn cái tôi bản ngã. Ta lướt mạng dạo net, trải lòng tâm sự chuyện nhỏ việc lớn, chuyện nhà việc người, chuyện ta chuyện nhà bạn bè lối xóm. Ta có được niềm vui đâu đó, nơi kẻ thân người lạ gần xa hội tụ đem lại, lời khen giả tạo tiếng tung hô vang dội, thế là ta tạm cho đó niềm vui hạnh phúc. Có phải ta đang bị chính cảm giác và sự ảo tưởng nào đó trong ta đánh lừa? Hơn ai hết ta biết rõ một điều, có hạnh phúc nào mà không đánh đổi trả giá, không trải nghiệm dưỡng nuôi?
Cứ vậy, đủ thứ đủ việc đêm ngày tràn ngập, chuyện ta việc người khiến ta bận rộn không hở tay đầu óc căng cứng, tạm gởi tạm quên tạm vui trong giây phút nhưng lại trôi nỗi đến tận bây giờ. Dù ta suy nghĩ hết sức đơn giản, chỉ là giao tiếp xã giao kết nối thăm hỏi người thân kẻ sơ, chia xẻ quan tâm lo lắng, hoặc thông qua đó kêu gọi đánh thức lòng thương gây sự chú ý, có khi thể hiện bản ngã cái tôi, khoe cảnh khoe người, độ giàu sang số an hưởng. Đàng nào thì cách xử sự trong ta phần nhiều đều do cảm xúc cảm giác không thật núp bóng trá hình, dẫn dắt mua chuộc chạy theo nâng cấp bản tính, thói hư tật xấu tồn đọng từ lâu. Những cách biểu lộ thái độ cảm xúc nhất thời, yêu ghét, thích hoặc không thích, tưởng chừng không có hại theo thói quen của bản năng, có hoặc không có chủ đích. Những gì do ta tác tạo gây nên cố ý hay vô tình, không hề biến mất nó vận mãi theo ta như bóng với hình, đến lúc chín mùi ta phải gặt hái nhân quả. Những lo toan vui buồn chạy theo cuộc sống, làm cho ta không có dịp tìm thấy giá trị đích thật của sự sống. Phút giây tưởng chừng của hạnh phúc đâu đó trá hình núp bóng, đều được ta nâng cấp tung hô gọi mời dàn trải lên net, tự hào tự mãn cho là thành công, khuôn mẫu thước đo bao người mơ ước. Thói hư tật xấu trỗi dậy, ganh tị ích kỷ, nhỏ nhen tự ti so sánh tìm cách lấn sân ngự trị, trầm trồ khen ngợi ước ao toan tính, tra tấn mắt tai người nghe kẻ thấy.
Ta đầu tư công sức thời gian năng lực vào đó cho nhiều hao tổn, cuối cùng để rồi ôm lấy phiền muộn khổ đau hụt hẫng nuối tiếc. Ở đời cái gì việc gì cũng vậy đều có mặt trái mặt phải, thiện ác đan xen lẫn lộn, ta phải xử dụng đến trí tuệ và cần có sự tỉnh thức để nhận diện rõ ràng bản chất của từng vấn đề. Cái hiện tại và bây chừ chỉ có nhiêu khê núp bóng, trá hình ru ngủ, lộng giả thành chơn, phân minh rạch ròi hiếm thấy, ta quờ quạng tối tăm, để cho thói hư tánh xấu lung lạc đưa đường. Nếu ta biết được rằng, niềm vui nào đến từ những gì không do tâm mình phát khởi thật sự, không do quá trình trải nghiệm mang lại, mà do kẻ khác hay bên ngoài dâng cho bố thí, ca ngợi tán dương bày trò ủy mị, thì không trước sau cũng phải lụy phiền đớn đau hụt hẫng nuối tiếc. Có khi nào ta tự chiêm nghiệm tư duy đánh giá lại chính mình con người mình, một cách minh bạch tinh tường là khi làm một việc gì ta thật sự có nghĩ đến hậu quả của nó không, có gây thương tổn đau khổ cho một ai không? Một người có được nội lực tu tập có sự vững chãi nơi nội tâm, có phẩm hạnh đạo đức, lúc nào và bao giờ cũng làm chủ được hành động suy nghĩ của mình. Thường xuyên sống trong sự tỉnh giác, ý thức một cách sáng suốt minh mẫn nguyên cớ nguồn cơn, biết đâu là giới hạn, đâu là giải trí tìm tòi học hỏi, đâu là cháy bỏng đam mê, đâu là chừng mực vừa phải, đâu là ảo mộng đang mơ.
Lối sống cách sống tâm cảnh sống của ta bây giờ cao siêu tinh vi hiện đại đủ đầy, có muôn ngàn hồng tía thật giả khó phân, lòng người sâu thẳm khó đoán khó dò, có vô số chiêu thức thủ đoạn dối trá lừa lọc, đêm ngày lôi kéo ta mải miết chạy theo. Ta sống với cái quá khứ ra đi biền biệt không hẹn ngày về, ta ôm cái hiện tại chạy nhảy lăng xăng, ta hướng đến cái tương lai không hề có sự bảo đảm. Ta tìm vui trong chốc lát ngủ quên trong hào quang chiến thắng, mải mê lặn hụp trong não phiền sông mê biển ái. Ta lạc hướng mất phương nửa mê nửa tỉnh sống gửi sống, tháng ngày trôi qua trong sự phiền não tái tê. Để lắp vào khoảng trống đơn côi nghiệt ngã tệ hại bao phủ đó, ta tìm quên trong men say những chất độc hại làm cho tâm trí mê mờ, ta dạo sóng lướt net phê phán thị phi, quên thời gian trống trải tháng ngày vất vả lo toan. Những cuộc mua vui giả tạm, lộng giả thành chơn, canh bạc đỏ đen, rượu chè cung phụng, nhả khói hít mây, món ngon vật lạ đó. Khiến cho ta tối tăm mặt mũi không thấy ngày mai, những hối hả toan tính đó, những lầm lạc tai hại đó, cũng chỉ nhằm thỏa mãn bản năng thể hiện cái tôi bản ngã, chứa đầy lòng tham sân si đang cuồn cuộn dâng cao choáng ngợp trong ta. Để rồi sau đó, khi cuộc vui chóng tàn nuối tiếc hụt hẫng dâng cao, còn lại khoảng trống im lìm choáng ngợp, đơn côi nghiệt ngã đợi chờ, nỗi buồn vây quanh đớn đau vạn nẻo đón chào. Biết khi nào ta mới dừng lại mới nhận ra, làm một con người hiểu biết thánh thiện cao cả, tốt đẹp thiện lành trong mọi tác tạo nói năng.
Ta không nên nói trong khi mình bị mất kiểm soát, không làm chủ được lời nói và hành động, lúc nóng giận vội vàng bực bội, thiếu vắng sự tỉnh thức, không “uốn lưỡi bảy lần”. Khi nói trong những tình huống mất đi sự sáng suốt, tâm trạng bất an, thiếu vắng sự kiểm soát của lý trí, lúc đó ta dễ bị nhầm lẫn dẫn dắt bởi sân tâm cảm xúc, hỷ nộ ái ố, buồn vui bất chợt. Khi ở trong tâm trạng bất an dễ đưa đến những lầm tưởng ngộ nhận đáng tiếc.
Trong Kinh Người Áo Trắng, Đức Phật dạy: “Vị đệ tử áo trắng xa lìa nói dối, chấm dứt sự nói dối, chỉ nói sự thật, tìm niềm vui trong sự nói lên sự thật, an trú nơi sự thật không lúc nào đổ dời, có thể được tin cậy hoàn toàn và không bao giờ dám miệt thị kẻ khác. Vị ấy diệt trừ tận gốc sự nói dối”.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Cũng một lời nói nhưng đem lại lợi ích hay nguy hại, tất cả còn tùy thuộc vào bản năng tâm tính bản chất thiện ác của từng con người. Lời của những bậc giác ngộ giải thoát, những hành giả tu tập sẽ chuyển hóa tâm linh soi sáng lòng người, hướng đến chân thiện mỹ, làm cho cuộc sống của chúng ta tăng thêm phần giá trị lợi lạc. Lời nói của người chính nhân quân tử sẽ được nhiều người kính trọng quý mến, thêm điều hay lẽ phải. Lời nói chỉ thị của những vị nguyên thủ, thủ tướng quốc gia, những người có chức cao quyền trọng sẽ làm thay đổi cả một dân tộc quốc gia con người theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chỉ một lời nói của những vị đó có thể cứu người, cứu dân cứu nước, cứu muôn loài chúng sanh. Ngược lại nếu lời nói của họ thiếu đi sự sáng suốt tỉnh thức, thì sẽ gây khổ đau cho con người, bất an cho dân tộc, gây tổn hại đến muôn loài. Lời của quan chức những nhà chính trị, những người có quyền hành thì trọng lượng của những lời nói vô cùng lớn lao có thể thay đổi cả tương lai của một hay nhiều người. Lời nói của người có thế lực lắm tiền nhiều bạc, có thể cứu người và cũng có thể gây chết người, nếu muốn họ có thể thay trắng đổi đen, đưa kẻ khác đến chỗ bất an bầm dập, tra tấn tù đày gánh tội thế tội.
Lời nói của những người có từ tâm, bao dung độ lượng sẽ làm thay đổi chuyển hóa con người, hướng đến điều tốt đẹp cho xã hội nhân sinh. Cứu người hay giúp người, tích cực hay tiêu cực, vị tha hay ích kỷ, phục vụ hay tiêu diệt, đều tùy thuộc vào tấm lòng thiện ác hay trung dung không thiện không ác của chính họ. Làm cho kẻ khác rơi vào bất an lo sợ phiền não khổ đau hay giúp đỡ vỗ về xoa dịu không gây phương hại đến ai. Tất cả đều tùy vào bản chất thiện lành của từng con người, ngôn từ mức độ cung bậc của từng lời nói. Tâm thiện và tâm ác lẫn lộn đan xen như đường tơ kẽ tóc, rất dễ chệch hướng sai lầm, chúng ta cần có sự tỉnh giác liên tục, mới trông thấy được nguồn cơn, nhận diện rõ ràng mọi đi lại trôi nỗi của tâm thức.
Lời nói có đi đôi với hành động, có nghĩ sao nói vậy, thật lòng hay giả dối, đôi khi chúng ta thấy vậy nghĩ vậy nói vậy nhưng chưa hẳn như vậy và cũng không chắc sẽ như vậy. Nhưng oái oăm thay lại trở thành chuyện thường tình điều tự nhiên của con người, nói không đúng với sự thật, thật giả khó phân thiện ác khó đoán lòng người khó dò, đoán già đoán non nghi ngờ mọi thứ sẽ làm cho ta bất an lo sợ, nhưng nếu không kiểm soát phòng bị chẳng may xảy ra những chuyện bất như ý không vừa lòng, lúc đó sẽ tức tối hối hận, mất bình tỉnh không chủ động được chính mình, thì đó lại là vấn đề của chính ta. Những lời nói thẳng, nói thật nói từ tâm can cõi lòng, dù làm cho ta khó nghe khó chịu nhưng lại là những lời nói thật, lời nói chân tình không khách sáo. Chúng ta cần nhận chân rõ ràng, tất cả điều đó dù tích cực tiêu cực, trực tiếp hay gián tiếp đều có sự can dự không ít thì nhiều của tham sân si, đẩy ta rơi vào vòng xoáy luẩn quẩn của đau khổ sinh tử. Ta có đủ lòng từ để tha thứ, có đủ tỉnh thức để hoan hỷ bỏ qua, có đủ trí tuệ để nhận diện đương đầu. Đó cũng chính nội lực tu tập và sự trân trọng gìn giữ bản chất thiện lành trong mỗi chúng ta.
Trong Kinh A Hàm Đức Phật dạy có 5 loại ngôn ngữ mà vị Tỷ Kheo có thể nói: “đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Tại đây, các Tỷ Kheo cần phải học tập, giữ tâm không có uế nhiễm, không nói lời ác ngữ, sống với lòng lân mẫn, từ bi, không sân hận đối với người, biến mãn thế giới với tâm từ bi”.
Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.
Nói vào một thời điểm thích hợp, đó là lúc tỉnh thức hiểu biết, gìn giữ chánh niệm làm chủ được thân tâm ngôn hành, phù hợp với chánh pháp, nhận diện rõ ràng những lời chơn thật hay hư dối, những lời từ ái yêu thương hay lời hung ác thô bạo, có đem lại lợi ích thiết thực hay không, có đánh mất đi tinh thần tương kính tương thuận lục hòa, có tâm từ hay với sân tâm. Đức Phật kêu gọi chúng ta gìn giữ tâm không bị nhiễm ô, không nói lời hung ác, thường sống với tâm lành cao đẹp, không sân hận với một ai, trải lòng từ bi đến với tất cả, hướng đến chánh đạo thiện nghiệp.
Miệng lưỡi dùng để ăn uống và nói năng, nhưng cũng chính từ cái miệng ấy đưa đến bao nhiêu điều, bao nhiêu việc bao nhiêu thứ dễ thương cũng có phiền não cũng nhiều. “Tô vẽ điều sai, nói không thành có”. Từ xưa đến nay miệng lưỡi của mình chuyên gây rắc rối phiền hà, lắm việc nhiều chuyện, mang lại niềm vui thì ít nỗi khổ buồn phiền thì nhiều thị phi cũng lắm. Một khi biết kiềm chế những phát sinh từ miệng, làm chủ và xử lý thật tốt những phiền não rối ren bất an, kiểm soát được những cảm xúc khen chê, được mất hơn thua tranh giành níu kéo, đừng để những ngon dỡ của vị giác đánh lừa, như thế chúng ta loại trừ sự gây hại đến từ khẩu nghiệp.Tất cả đều tùy vào mức độ cảm thông hiểu biết, tỉnh thức, ái ngữ lợi hành trong ta như thế nào, có tự chế kiệm lời tâm từ ban trãi, phát huy hạnh nghiệp thiện lành cao quý. Chúng ta chuyển hóa và chuyển hướng miệng lưỡi một cách tích cực và hoàn thiện, thay đổi thói quen bun nhiễm, tật xấu quấy rầy nâng cao phẩm chất và giá trị đạo đức. Thay vì để cho nó phát sinh những nguy hại bất an, bây giờ ngôn ngữ phát ra đong đầy từ ái an vui, chứa đựng tình người tình đạo. Nói lời thật việc thật những lời chân thật không hư dối, những lời nói phát xuất từ nơi con tim bao dung độ lượng. Những lời nói phù hợp với chân lý, những lời tỉnh thức, mang lại hạnh phúc an vui cho mình và tha nhân.
Tất cả mọi hành động nghĩ suy và tác tạo nói năng, đều dẫn đến nghiệp quả thiện ác, những gì chúng ta tương tác đều có sự phản ứng, dù tốt hay xấu tích cực hay tiêu cực. Nhân quả là một định luật công bình và sòng phẳng, ta phải chịu phần trách nhiệm những gì mình gây tạo ra, và không một ai có thể thay ta gánh thế và chịu dùm được cả. Thế nên thay vì nói những lời hung ác cay đắng bây giờ lại là những lời nói từ ái dễ nghe dễ thương, thay vì chọc giận thiên hạ thì bớt nói năng bớt phát biểu tỏ bày, thay vì sanh sự sự sanh từ nơi miệng bây giờ lời nói và việc làm luôn phù hợp với chánh pháp, làm các điều đúng pháp các điều chơn chánh, biết tự chế và kìm chế luôn giữ sự bình tâm trước mọi biến động. Sống sao cho thật tốt thiện lành, trân trọng những giá trị đạo đức cao đẹp, luôn làm người tử tế ích lợi cho mình và tha nhân.
Trong Bát Chánh Đạo, (Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định). Tám con đường dẫn đến an lạc hạnh phúc đích thật, hoàn thiện giác ngộ giải thoát. Đức Phật kêu gọi chúng ta thực hành Chánh ngữ, những lời nói chân chính chân thật không hư dối, những lời nói chánh niệm tỉnh thức, những lời nói phù hợp với chánh pháp, những lời xuất phát từ lòng từ bi bao la rộng lớn, những lời giác ngộ mang lại hạnh phúc cho mình và người, những lời dễ thương chân thật lợi mình vui người.
Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập: “Thế nào là Chánh ngữ? Là lời nói ra không gây phiền não cho mình cũng không làm cho người khác phiền não, không tự làm ô nhục cũng không làm ô nhục người khác, không tự khinh mạn cũng không khinh mạn người khác, không tự dối cũng không dối người khác, đó là Chánh ngữ. Lại nữa, phàm những lời nói nào nói rằng tất cả các pháp đều bình đẳng, khéo léo phân biệt tướng của các pháp hữu vi, là Chánh ngữ. Lại nữa, Chánh ngữ là nói tất cả các pháp đều không, vốn vô tướng, không sinh, không diệt, không đến, không đi. Lại nữa, Chánh ngữ là nói có Khổ, Vô thường, Vô ngã, Niết bàn tịch tịnh; nói rằng chúng sinh, tất cả đều không có tướng sang hèn, tất cả các pháp đều do duyên sinh, cũng do duyên diệt, tất cả đều vận hành theo nguyên lý nhân quả”.
Chánh ngữ, những lời như thật phù hợp với chân lý, như thật tánh như thật tướng của các pháp, những lời của chánh đạo thiện pháp. Khi ta tu tập tinh cần tỉnh giác, ba nghiệp đều hướng đến thiện lành, tăng trưởng lòng từ bi phát huy tấm chân tình cao quý. Ta nói từ trong con tim yêu thương, nói lời chân chính không hư dối, nói từ tận đáy lòng chân thật nên tạo được sự cảm thông tin tưởng khiến người nghe sanh tâm hoan hỷ, mang đến sự lợi lạc cho mọi người. Đến lúc ta phải chuyển hóa những gì không được đẹp những gì gây nguy hại trở nên tốt lành, hằng sống trong sự phủ vây của hương thơm tuệ giác. Tâm tư ngôn ngữ lời nói lúc nào cũng chứa đựng sự tỉnh thức giác ngộ, loại trừ những bất thiện xấu xa làm mới hoàn thiện con người của mình, nuôi dưỡng những đức tính tốt đẹp, mang lại sự an lòng vững tâm cho người đối diện. Thường sống chuẩn mực với tâm thiện lành, hành xử thiện lời nói thiện suy nghĩ thiện.
Khi ta dâng hết tâm từ để ban trải, lòng từ bi tràn ngập trong mọi tư duy hành động nói năng, không do dự đắn đo thì tâm mới được an tịnh, chỉ khi nào bằng lòng thanh thản với buồn vui được mất, với vô thường biến hiện đổi thay, chấp nhận an nhiên với những gì hiện hữu. Hiểu và sống trọn vẹn được như vậy mới không bị chi phối, không bị cạn kiệt hư hao, không lo sợ bị tước đoạt, mới thanh thản đến đi trong cuộc đời. Một khi ta thức tỉnh quán chiếu, hiểu rõ căn nguyên mọi sự vốn dĩ như thế rõ ràng như vậy, bản chất thật hữu của từng hiện thể, sự đi lại của sanh diệt vô thường khổ đau. Ta mới quyết tâm dốc lòng đương đầu trực diện bằng lòng vượt thoát, mỉm cười hoan hỷ đón nhận tất cả, an nhiên sống với vô thường biến động, tìm thấy hạnh phúc đích thực trong cõi chân thường.
Sám Hối Sáu Căn, phương pháp tu tập có giá trị vượt thời gian, do Trần Thái Tông (1218-1277) một vị Thiền Sư Cư Sĩ vĩ đại biên soạn. Nhằm cảnh tỉnh nhắc nhở chúng ta ngăn ngừa bảo hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đây còn là cửa ngõ đi lại giao tiếp, giúp cho chúng ta nhận diện minh bạch rõ ràng mọi sự biến hiện tác động trôi nỗi của các căn, góp phần thiết thực cho tiến trình chuyển hóa nghiệp lực của chúng ta, mang lại sự an lạc đích thật. Một khi chúng ta hiểu biết những tác hại phiền nhiễu đến từ miệng lưỡi các căn như thế nào, thì việc gìn giữ nâng cao phẩm hạnh thiện lành, trãi lòng sám hối quyết không tái phạm, phát nguyện tu tập chuyển hóa các căn thanh tịnh là điều cần thiết.
Nghiệp căn Lưỡi là:
“Tham đủ mọi thứ, thích xét ngon dở,
Nếm hết các thứ, rõ biết béo gầy.
Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng thân mình,
Quay rán cá chim, nấu hầm cầm thú.
Thịt tanh béo miệng, hành tỏi ruột xông.
Ăn rồi đòi nữa, nào thấy no lâu.
Hoặc đến đàn chay, cầu thần lễ Phật,
Cố cam bụng đói, đợi lúc việc xong.
Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều,
Giống hệt người đau, gắng nuốt thuốc cháo.
Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan,
Rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi.
Bày tiệc đãi khách, cưới gả cho con,
Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi.
Nói dối bày điều, thêu dệt bịa thêm,
Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu dấy khởi.
Chửi mắng Tam bảo, nguyền rủa mẹ cha,
Khinh khi Hiền thánh, lừa dối mọi người.
Chê bai người khác, che dấu lỗi mình,
Bàn luận cổ kim, khen chê này nọ.
Khoe khoang giàu có, lăng nhục người nghèo,
Xua đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ.
Lời dèm thuốc độc, nói khéo tiếng đàn,
Tô vẽ điều sai, nói không thành có.
Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông,
Tán dóc Tăng phòng, ba hoa điện Phật.
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Ví như cát bụi, đếm không thể cùng.
Sau khi mạng chung, vào ngục Bạt thiệt
Cày sắt kéo dài, nước đồng rót mãi.
Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới sanh,
Dù được làm người, lại bị câm bặt.
Nếu không sám hối, khó được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối”.
Đệ tử chúng con, chí tâm phát nguyện:
“Một nguyện ăn no, vị vô thượng đạo,
Hai nguyện nhả hết, vị trần tanh hôi,
Ba nguyện biện tài, trừ các lậu hoặc,
Bốn nguyện thích nói, độ được quần sanh,
Năm nguyện đọc hết, kho báu vô tận,
Sáu nguyện sông pháp, uống sạch cạn khô,
Bảy nguyện sớm nhận, Đại Ngu thè lưỡi,
Tám nguyện nhanh đồng, tiếng hét Lâm Tế,
Chín nguyện lưỡi dài, cùng Phật không hai,
Mười nguyện trong sạch, như bầu trời xanh,
Nguyện thứ mười một, thế gian không câm,
Và nguyện mười hai, địa ngục hết cày”.
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Lưỡi vướng vị ngon cũng chính vì ưa thích tham đắm món ăn ngon dỡ, đắm chìm nơi hương vị khen chê, thích mùi vị thịt cá chiên xào nấu nướng mà chúng ta gây tạo biết bao ác nghiệp, chạy theo món ngon vật lạ, kiếm tìm tính toán ăn thứ gì uống chất gì cho ngon cho bổ. Cũng chính vì vị giác ngon dỡ, chạy theo đòi hỏi cung phụng cho tấm thân món ngon vật lạ đủ đầy, sợ kẻ khác chê cười đàm tiếu, độ chơi kém cạnh không không hết lòng với bạn bè. Đưa vào miệng những thứ không phù hợp gây tổn hại cho cơ thể, bỏ vào mồm những thứ tẩm hóa chất độc hại tiện lợi và khói khẩu, ham ăn thích uống nhậu nhẹt linh đình, bệnh tật phát sinh khổ mình và cả người thân.
Khi ta ăn uống, có những thực phẩm thức uống thích hợp để nuôi cơ thể, ngược lại cũng có rất nhiều loại thức ăn chất uống không có giá trị dinh dưỡng và không thích hợp để đưa vào cơ thể, nhưng nếu do tham lam mê đắm hương vị ngon dỡ ta không chọn lọc kỹ càng sẽ gây hại cho thân thể. Nếu ta ăn uống không tiết chế điều độ đưa vào cơ thể quá nhiều chất đạm chất béo sẽ làm cho ta bị bệnh béo phì, tiêu hóa khó khăn gan thận làm việc quá tải, ảnh hưởng đến sức khỏe những bệnh về tim mạch. Những chất dầu mỡ, đường, muối nếu tiêu thụ quá nhiều dư thừa đến khi các bộ phận yếu kém sẽ làm cho chúng ta dễ bị cao máu cao mỡ cao đường ảnh hưởng đến sức khoẻ “bệnh từ nơi miệng” là vậy. Ở phương diện tâm thức, những tác tạo và sự huân tập, cũng như môi trường sống, cách sống lối sống của ta đều tạo sự ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự hình thành nghiệp quả. Nếu ta tha hồ nhận vào đổ vào đó tất cả, không chịu gạt bỏ những thói hư tật xấu, không chịu thanh tẩy, không chịu “nguyện nhả hết, vị trần tanh hôi”, cứ thế biến tâm của mình trở thành bãi rác chỉ kết nạp dung chứa, và cất giấu những thứ ô nhiễm độc hại, sẽ khiến cho ta lún sâu chồng chất chết chìm trong dòng đời đau khổ bất an. Nếu ta không chịu loại trừ tâm ác bất thiện, gạt bỏ tham sân si não phiền, quán chiếu tinh tường, nhìn xa trông rộng, giải phóng chính mình ra ngoài mọi khổ đau, thì ta mãi trôi lăn lạc loài trong biển khổ mênh mông không thấy đâu là bến bờ.
Khi uống rượu bia những chất gây nghiện, làm cho tâm trí ta mê mờ, say sưa nghiện ngập, gây ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể. Theo nhũng nhà nghiên cứu khi lạm dụng rượu bia sẽ đem đến nhiều tác hại như: ảnh hưởng đến não bộ, tim mạch, tác hại cho dạ dày, gan, làm tổn thương tuyến tụy, gây tiểu đường ung thư, tăng nguy cơ mắc bệnh gout, loãng xương tiêu cơ bắp. Nước ngọt có ga chứa nhiều hóa chất độc hại, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ như: béo phì, hen suyễn, tiểu đường, bệnh tim mạch. Thông thường, rượu vào lời ra gây mất hòa khí, bất đồng quan điểm, không vừa lòng toại ý, sân si nổi lên chửi bới lẫn nhau, tranh luận cãi vã tranh giành phần thắng, nói năng hằn học, dẫn đến bạo động, “họa từ nơi miệng” là vậy. Do mất đi sự sáng suốt, không kìm chế được tâm tư và hành động, không làm chủ được chính mình dẫn đến những nguy hại cho bản thân gia đình và xã hội.
Việc ăn uống là hoàn toàn do ta lựa chọn nên ăn gì và uống gì, không ai có thể ép buộc được ta cả. Thế nên chọn ăn những gì không gây tạo ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp lòng từ bi, làm bạn với muôn loài, ăn chay là cách chọn lựa hiểu biết công bình và bình đẳng nhất. Nếu tất cả sinh mạng đều đáng được quý trọng thì không một ai có thẩm quyền hoặc nhân danh điều gì lý do gì, để giết hại tàn sát những sinh mạng khác dù lớn hay nhỏ. Những con vật bị chúng ta giết hại để ăn thịt thì không hề có một sự lựa chọn nào cả, ta xử dụng đến sức mạnh trí thông minh để hiếp đáp bóc lột những chúng sanh bé nhỏ yếu đuối không có khả năng tự vệ. Chúng ta kêu gào đau đớn khi người thân bạn bè mất, đau khổ khi phải chia lìa âm dương đôi ngã, nhưng đối với sinh mạng của chúng sinh ta lại thờ ơ vô cảm dửng dưng một cách lạnh lùng. Những con vật đều tham sống sợ chết, cũng sợ hãi và đau đớn như chúng ta vậy. Chỉ vì “Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng thân mình” mà ta gây tạo không biết bao nhiêu ác nghiệp, trả hoài trả mãi vẫn chưa xong.
Ăn chay là một hành động cao cả, đáng được kính trọng tán dương, sẽ là ý nghĩa hơn nếu chúng ta hướng đến tình yêu thương rộng lớn và trọn vẹn. Ăn chay là một sự tự nguyện, hoặc do mình phát nguyện, có nhiều lý do để dẫn đến việc ăn chay, ăn chay vì nuôi dưỡng lòng từ bi, có người ăn chay vì lý do tôn giáo, ăn chay vì lý do bệnh tật, ăn chay theo truyền thống, ăn chay để bảo vệ môi sinh, sự hâm nóng toàn cầu, ăn chay vì sở thích. Phần nhiều người Á châu ăn chay vì lý do tôn giáo, còn người Âu Mỹ ăn chay theo sở thích. Họ quan niệm việc ăn chay rất đơn giản nhẹ nhàng, ăn chay là góp phần bảo vệ trái đất trước sự hâm nóng toàn cầu, tác hại môi sinh môi trường sống. Họ ăn chay không cần nhân danh một điều gì cả, không vì ích lợi cho cá nhân mà cho cả tất cả muôn loài. Theo những nhà ăn chay vì môi sinh thì một người ăn chay có thể cứu được khoảng 100 con vật mỗi năm, (trung bình một người tiêu thụ khoảng 200 pounds thịt một năm, tốn khoảng 4,000 USD) trong khi đó phải tốn khoảng 13 pounds (khoảng 6kg) ngũ cốc mới tạo ra được 1 pound thịt (nửa kg thịt). Có khoảng 70% ngũ cốc được sản xuất ra ở Mỹ là dùng để nuôi động vật lấy thịt. Nếu người dân Mỹ thay vì dùng số lượng ngũ cốc để nuôi động vật ăn thịt, thì có thể nuôi được 800 triệu dân, nếu bán số lượng ngũ cốc đó ra nước ngoài thì thâu về được khoảng 80 tỷ một năm. Tính chung trên thế giới, có khoảng 1/3 ngũ cốc là dùng nuôi động vật để lấy thịt. Đó là chúng ta chưa đề cập đến số lượng nước dùng để tưới thực phẩm hoa màu, và cho những con vật đó uống. Phân bón, cũng như chất thải từ những con vật nuôi ấy, ảnh hưởng gây tác hại cho môi trường, sự hâm nóng toàn cầu gây hậu quả rất lớn đến từ kỹ nghệ chăn nuôi, nhằm cung phụng cho con người mà ra. Hiện nay số lượng người Mỹ ăn chay có gần 25 triệu người, chiếm khoảng 8% dân số.
Chỉ vì sự khoái khẩu lòng ham muốn món ngon vật lạ, cung phụng cho tấm thân tứ đại mà sinh mạng của những con vật phải bị giết hại, “Giết hại chúng sanh vì ba tấc lưỡi”. Chúng ta đâu có biết là khi những sinh vật bị giết, sự đau đớn oán hờn la hét co giật của chúng kết nối vào cơ thể vào từng tế bào thớ thịt, nên khi chúng ta ăn vào đều bị ảnh hưởng, hơn nửa trong cơ thể của chúng đều có những mầm mống bệnh hoạn tiềm ẩn. Một người ăn chay thì cơ thể và tâm của họ thường nhẹ nhàng, sống thọ và ít bệnh tật hơn.
Để cho lạ miệng và tăng thêm phần kích thích vị giác, nhằm thỏa mãn lòng tham tánh hiếu sát, tự hào thưởng thức món ngon vật lạ trên đời. Họ còn nghiên cứu tìm tòi ăn con gì để bổ cái gì, ăn uống thứ gì để sống lâu sống khỏe, từ những con sinh sản nơi thiên nhiên đến những con vật chăn nuôi, loài vật cho đến côn trùng, họ ăn bất cứ con gì cựa quậy nhúc nhích. Với quan niệm không bổ ngang cũng bổ dọc, không bổ chỗ này cũng bổ chổ khác. Họ ra tay tàn sát săn bắn và tiêu diệt những gì họ thích, nếu không có luật bảo vệ động vật hoang dã, thì mức độ tàn sát sẽ vô cùng khủng khiếp. Chúng ta đang ở vào thời kỳ báo động đỏ việc khan hiếm thực phẩm nước uống, mỗi ngày ở trên thế giới có hàng vạn trẻ em hàng ngàn con người chết vì thiếu ăn thiếu nước uống.
Trong việc ăn chay, nhiều khi ta ăn chay theo kiểu có thánh thần đứng một bên trông coi ghi việc sổ sách, hoặc hứa hẹn ăn chay để cầu xin một việc gì đó. Như vậy ăn chay trở thành miễn cưỡng bắt buộc chứ không còn là sự tự nguyện, tự mình làm khổ chính mình. Có khi ta lại khó tính và chú trọng quá nhiều đến cách ăn uống, hoặc khi ngửi thấy mùi mặn thấy đồ mặn ta lại bịt mũi lắc đầu nhăn nhó tỏ vẻ khó chịu, điều đó sẽ gây khó khăn phiền hà cho mình và người khác. Những món chay bán ở các tiệm thực phẩm nhà hàng, hầu hết đều đặt tên bằng những món mặn, từ cách chế biến cho đến hình dáng, từ hương vị đến mùi vị rất giống những món mặn như: cá chay, gà chay, thịt bò chay, thịt heo chay, bún bò giò heo chay... Không biết khi ta ăn những món giả mặn như thế, ta có so sánh liên tưởng tác ý móng tâm? Khi ta ăn bằng mắt, mũi, miệng hay trong tâm ý thì kết quả cũng giống như nhau. Thế nên muốn đoạn trừ ác tâm bất thiện chúng ta phải phát khởi tâm từ, học hạnh lắng nghe nỗi đau sự khổ của muôn loài, quán tưởng đến tiếng kêu la đau đớn của những chúng sanh bị giết hại. Đem lòng bi mẫn nguyện cầu cho những chúng sanh ấy sớm được siêu thoát, điều quan trọng phải thường xuyên nuôi dưỡng lòng từ bi trong ta luôn được lớn mạnh.
Có điều chúng ta cũng cần lưu ý, việc ăn chay thì là như vậy tương đối rõ ràng, còn việc uống nhiều khi chúng ta dễ bị nhầm lẫn hơn. Trong y dược Đông Y hay dược phẩm chức năng bồi bổ, có một số thuốc đến từ động vật như: cao hổ cốt, lộc nhung, mật gấu, rượu ngâm những con vật, rượu dùng để dẫn thuốc... còn có dầu cá, yến sào, vỏ nghêu sò...Để nuôi dưỡng lòng từ bi một cách trọn vẹn, những thứ dùng để trị bệnh, ngăn ngừa bệnh hay bồi dưỡng cho cơ thể có liên quan đến sinh mạng sự khổ đau của chúng sanh, chúng ta cũng cần phải cẩn trọng.
Thực phẩm chay ta thường ăn, vì để tiện lợi và ngon miệng ta đều mua dưới dạng chế biến sẵn do những công ty từ Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc sản xuất. Thông thường đồ ăn thức uống được chế biến sẵn, những nhà sản xuất đều phải bỏ những chất phụ gia những chất bảo quản vào trong đó, để cất giữ lâu ngày không bị hư mốc. Những thực phẩm đó đều có hóa chất dễ gây ung thư không tốt cho sức khỏe, chúng ta ăn vào sẽ tích lũy trong cơ thể bệnh tật phát sinh. Ta cần phải ăn uống một cách lành mạnh và đầy đủ chất dinh dưỡng, không nên ăn chỉ vì sự khoái khẩu lạ miệng.
Thật ra nếu ta chỉ đặt mục đích của việc ăn chay, như là tăng trưởng lòng từ bi, thương xót chúng sanh không nở giết hại, làm bạn với muôn loài, ăn chay để bớt đi nghiệp sát hại, ăn chay vì luật nhân quả. Tức là ta ăn chay có chủ đích có mục tiêu, ta lo cho bản thân cho nghiệp quả, ta nghĩ đến lợi lạc cho riêng mình, ta lo sợ đủ thứ đủ việc vay trả trả vay nên ta ăn chay. Đây là điều chúng ta cũng cần suy nghĩ, thay vì ích lợi cho riêng mình, chúng ta vâng theo lời Phật dạy đem lòng từ bi hướng đến sự cao cả rộng khắp cho tất cả muôn loài chúng sinh “Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài”. Có như thế thì việc ăn chay của ta mới mười phần viên mãn, đem lại lợi lạc thiết thực cho muôn loài.
Những vị ăn thực vật vì lý do môi sinh là mong cho quả đất này giảm bớt đi sự hâm nóng toàn cầu, không muốn cho bầu khí quyển nóng thêm lên, gây khổ đau chết chóc cho muôn loài. Vì mục đích như vậy nên những vị ấy tự nguyện ăn thực vật, ăn đồ rau cải, và cũng không cần ai biết ai chứng ai khen, cũng chẳng cần cầu xin ân sủng từ đấng nào. Những vị đó không nghĩ đến bản thân, qua việc ăn như thế sẽ được trả công cái gì điều gì, họ cũng chẳng phải lo lắng để được lên cảnh giới nào hoặc bị trừng phạt xuống hỏa ngục. Ngoài việc họ chỉ là một phần tử nơi quả đất này, nên có trách nhiệm bảo vệ trái đất tốt hơn đẹp hơn an ổn hơn. Một sự tự nguyện cao cả và đầy ý nghĩa, một sự lựa chọn bình đẳng và giá trị, tất cả là vì muôn loài chúng sinh mà không mong cầu riêng cho bản thân. Đó cũng là cách thể hiện lòng từ bi yêu thương một cách cao đẹp và trọn vẹn.
Trong Kinh Trường Bộ, Đức Phật đề cập đến bốn loại thức ăn: Đoàn thực (thô hay tế) Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực. Thức ăn đầu thuộc về yếu tố vật chất, ba thức ăn còn lại thuộc về tinh thần. Thế nào là đoàn thực? Đó là thức ăn để nuôi sống cơ thể vật chất, chỉ ăn vừa đủ cần thiết để duy trì sự sống, ăn những gì thích hợp phù hợp nuôi dưỡng thân mạng mà thôi. Xúc thực là những giao tiếp, những tiếp xúc tương tác của chúng ta với mọi thứ chung quanh, vì những điều đó không nhiều thì ít sẽ tác động gây ảnh hưởng thấm nhuần đến chúng ta. Chỉ nên tiếp xúc với những gì cao quý thánh thiện đẹp đẽ. Môi trường sống cách sống của những hành giả luôn hướng đến sự tu tập giải thoát, sức mạnh an lạc của nội tâm năng lượng giác ngộ bao phủ lan tỏa, phần nào ảnh hưởng đến ta theo đó tự mình vận dụng mọi thắng duyên nội tại nỗ lực noi theo hành xử.
Điều cần nhất ta cố gắng chế ngự căn, trần, thức, những đi lại của tâm ý, đừng để cho nó dẫn dắt đẩy đưa ta rơi vào mê lộ, trôi nổi trong biển khổ. Ta cố gắng đoạn trừ những bất thiện xấu xa, huân tập những thiện lành cao quý, nâng cao phẩm hạnh tự thân, không để nhiễm ô bất thiện, không để phiền não khổ đau cứ mãi đeo bám. Tư niệm thực món ăn thiền định, quán chiếu tư duy đi vào suối nguồn vi diệu của tuệ giác, trí tuệ tăng trưởng đoạn tận vô minh não phiền. Thường xuyên nghĩ nhớ quán tưởng đến Đức Phật, nhân cách cao quý trí tuệ siêu việt sáng ngời của Ngài, thường sống trong chân lý nhiệm mầu cao cả của Đức Thế Tôn. Thức thực món ăn đến từ sự khéo hiểu biết nhận biết rõ ràng minh bạch những lời dạy bảo của Đức Phật, tinh cần nỗ lực tu tập nuôi dưỡng thân huệ mạng, giải phóng khổ đau về với an lạc thường hằng. “Nguyện ăn no, vị vô thượng đạo”, Pháp hỷ thực, thường sống trong sự hoan hỷ sung mãn an lạc trong chánh pháp của Đức Thế Tôn, thực hiện hành xử trọn vẹn những lời dạy bảo của Ngài. Thiền duyệt thực, món ăn của định tuệ tuyệt vời, tỉnh giác soi sáng đêm ngày, tự tại an nhiên trên mọi bến bờ.
Ăn uống trong sự chừng mực biết vừa biết đủ, không đàn áp cũng không o bế, chỉ cốt nuôi tấm thân tứ đại để tu tập, không cầu kỳ khó khăn, ngon dỡ hương vị chẳng ảnh hưởng, ăn trong chánh niệm tỉnh giác trong sự bố thí mà không đòi hỏi mong cầu. Những gì ta ăn uống đều đưa vào cơ thể tích tụ ở đó, hoặc nuôi dưỡng hoặc gây nguy hại, cơ thể của chúng ta chỉ cần tiếp nhận bao nhiêu chất dinh dưỡng là đủ, đừng vì lòng tham ham ăn ham uống khoái khẩu đã miệng, ta đưa vào đó quá nhiều những thứ dư thừa không cần thiết, tạo cơ hội cho bệnh tật phát sinh. Ta “Nguyện nhả hết, vị trần tanh hôi” từ bỏ nhiễm ô uế trược, những vướng bận mê mờ tăm tối, đoạn trừ phiền não tham sân si, phát khởi lòng từ tâm bi luôn lớn mạnh để có được đời sống an lạc đầy giá trị và ý nghĩa, lợi mình lợi người và muôn loài chúng sanh.
Nếu tất cả sinh mạng của chúng sanh đều có giá trị như nhau, thì không một ai có đủ thẩm quyền hoặc nhân danh điều gì, để ra tay tiêu diệt đàn áp khống chế một sinh mạng khác cho dù bé nhỏ như con kiến. Có sinh mạng nào trên quả đất này mà không bị bàn tay còn người giết hại tiêu diệt, có sự sống nào mà không bị con người tìm cách tước đoạt đe dọa? Hoặc có ý định giết muốn giết thích giết, thấy kẻ khác giết hại vui mừng tán đồng. Có phải tất cả chỉ vì lòng tham sân si, sự khoái khẩu cung phụng cho tấm thân hư huyễn, thỏa mãn bản năng bất thiện, dung dưỡng bản tính hiếu sát? Để có được sự an lành thanh thản đích thực, thì chỉ có tình thương yêu mới hóa giải thù hận niềm đau, lìa bỏ ác tâm không gây thương tổn đến bất cứ một ai chúng sanh nào.
Kinh Thương Yêu “Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh. Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn. Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài”.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Điều quan trọng và cần thiết nhất là ta phải phát khởi lòng từ bi yêu thượng rộng lớn, cùng hạnh nguyện cao cả hiến dâng phụng sự cho muôn loài. Chỉ có tâm nguyện và hạnh nguyện cao tột, mới đủ năng lực khai mở tuệ giác xua tan bóng đêm dày đặc vô minh tăm tối, đem đến cho ta một bình minh tươi đẹp trong ý nghĩa vượt thắng của giác ngộ, mang lại hạnh phúc an lạc đích thực cho chính mình, rãi từ tâm hướng nguyện đến tha nhân muôn loài.
Nếu chúng ta cứ mãi tiếp tục tàn phá môi sinh, hủy hoại môi trường sống của muôn loài, không một chút tiếc thương, chỉ biết hủy diệt mà không bảo vệ, thì sự sống của muôn loài trên trái đất ắt hẳn sẽ phải đi đến chỗ diệt vong. Chúng ta đang đứng trước thảm họa do chính chúng ta góp phần tạo nên, nguồn nước sạch bị ô nhiễm, dịch bệnh phát sinh, hâm nóng toàn cầu, băng tuyết tan chảy, nước biển dâng cao, vũ khí nguyên tử, hóa học vi trùng, hiệu ứng nhà kính, khí thải từ những nhà máy v.v... Sự thành công vượt bậc của công nghệ, khoa học đáng được ca tụng nhưng cũng kéo theo quá nhiều hệ lụy, trái đất đang ngày đêm oằn oại dưới bàn tay phá hoại thô bạo của con người, lợi ích cá nhân tập đoàn quốc gia đêm ngày ra sức tàn phá tiêu diệt, tha hồ dốc sức gom vào tích lũy của cải vật chất, mộng bá quyền, nước lớn chèn ép nước nhỏ. Phải chăng ngày hôm nay nhân loại đang nhận lấy những gì mình đã gây tạo? Những gì chúng ta gây nên cũng đến lúc thiên nhiên trả lại, chỉ là vấn đề thời gian chậm hay mau và như thế nào. Đàng nào thì chúng ta cũng phải nhận lấy hậu quả không loại trừ một ai, không còn cách nào để từ chối hay trốn chạy được, vì đó là luật nhân quả một định luật công bình và sòng phẳng.
Hành động, nói năng và suy nghĩ từ nơi thân, khẩu, ý tạo ra muôn ngàn ác nghiệp, tất cả đều do vô minh tham sân si, thiếu hiểu biết, không làm chủ chính mình, không kiểm soát được mọi khởi động của thân tâm ngôn hành. Những lời nói bộc trực thẳng thắn lại rơi vào cảnh “lời ngay thẳng dễ gây mất lòng”. Vậy thì phải làm sao nói sao sống sao cho vừa lòng nhau, cho phù hợp với chánh pháp? Phật dạy: “không tán thán, không khen chê, không phê bình, không chỉ trích”, chỉ nên nói lời từ ái tế nhị chánh ngữ, nói trong sự tỉnh giác, thường sống trong suối nguồn vi diệu của tâm lành ban trãi. Bậc cổ đức thường nhắc nhở chúng ta phải từ bỏ những nhân ác xấu, nuôi dưỡng lòng từ bi tăng trưởng thiện nghiệp, giảm thiểu sự nói năng “để cửa miệng đóng mốc” nhằm cảnh tỉnh răn dạy chúng ta những hậu quả tác hại do miệng lưỡi gây ra. Thiền sư Chân Nguyên trong bài thi kệ có câu: “nói ra là bị kẹt, nhưng không nói cũng chẳng xong” thế nên chúng ta cần phải “nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp” làm thinh như bậc thánh, chỉ nên nói những gì cần nói đúng thời đúng lúc đúng đối tượng, cần phải tu tập gìn giữ thân, khẩu, ý cho được trong sáng, nâng cao phẩm hạnh cao quý, nhiều khi chỉ một hành động mà ngàn lời cũng không sánh kịp. Chúng ta chỉ nói những lời Phật dạy, những lời phù hợp với chân lý, những lời từ bi lan tỏa yêu thương, miệng thường xuyên niệm Phật, thực hành theo hạnh nguyện cao cả của chư Phật, quán tưởng nghĩ nhớ đến công hạnh hóa độ của chư Phật Bồ Tát. Chỉ có hành giả hết lòng nỗ lực tu tập sẽ không nói lời khen chê, làm chủ được thân khẩu ý, bình thản an nhiên trước mọi biến động, thường sống trong sự tỉnh thức có được an lạc giải thoát ngay trong hiện tại.
Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật chỉ nói trong những trường hợp như sau: “Cũng vậy, này Vương tử, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói những lời ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai ở đây biết thời giải thích lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân. không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lai không nói lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói ấy. Vì sao vậy? Này vương tử, Như Lai có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình.”
Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch
Ở vào thời kỳ lên ngôi của ngôn ngữ chữ nghĩa biện luận lý giải, ta dễ bị dẫn dắt vào mê lộ của tâm thức, lầm lạc trong sự nhảy múa của chữ nghĩa tư tưởng. Ta cần phải tỉnh thức tư duy mở tung năng lực nhiệm mầu của tuệ giác, tìm hiểu gạn lọc kỹ càng nhận diện rõ ràng bản chất của từng vấn đề. Tìm đến với những gì phù hợp với chánh pháp với chân lý như thật, đưa ta tiếp cận với giác ngộ trong sự rộng mở an lạc của nội tâm. Nhưng trên hết ta phải tự mình thẩm định và trải nghiệm, tìm thấy được những giá trị cao đẹp từ nơi thân tâm ngôn hành. Nếu không như vậy ta chỉ lập lại và làm thế cái việc của kẻ khác, dù đó là điều ta chẳng mong muốn, và quan trọng hơn nữa đừng biến mình phải khổ đau sống chết, theo từng ngôn ngữ tung hô tâng bốc gọi mời của kẻ khác, sống dựa trên tiêu chuẩn của người khác áp đặt. Đừng để cho những cảm xúc không thật trá hình lừa dối, những ngôn ngữ vui buồn hân hoan bất chợt do kẻ khác ban tặng miễn phí. Chạy theo tâm lý thường tình, dẫn dắt lôi kéo của ý thức nhiễm ô sai khiến, biểu hiện của những thành tựu hãnh diện tự mãn tự cao. Đêm ngày chạy theo sở học kinh viện giáo điều tư tưởng không phù hợp với đạo lý như thật, quay cuồng trong sự luân phiên xúi dục kiềm toả của vô minh tham sân si. Đến khi nào chúng ta mới thật sự từ bỏ những xấu ác do thân khẩu ý mang lại, chấm dứt sự lôi kéo đưa đẩy tác hại của căn trần, thức? Đừng để cho câu “càng nói càng sai” vận vào người lấy mình làm điểm hẹn, ác tâm lên ngôi nắm giữ đánh mất nhân phẩm giá trị đạo đức, phiền não đau khổ đêm ngày gặm nhấm.
Điều quan trọng nhất chúng ta cần phải liên tục nâng cao tâm thiện lành cao quý trong mọi ngôn hành tư duy tác tạo, thường sống với tỉnh thức giác ngộ, thì mới có được sự bình an hạnh phúc đích thực trong cõi nhân sinh. Một lòng hướng đến sự giải thoát, nỗ lực tinh cần tu tập thực tu thực chứng, quyết tâm rời xa ác tâm khổ đau bất an phiền muộn. Tất cả, tùy thuộc vào những khơi mở đúng mức ở trong ta, có hết lòng buông bỏ xả ly, lìa xa thói hư tật xấu, bỏ xuống những nhọc nhằn phiền muộn lo toan? Rốt cuộc, ta bỏ xuống hay nâng lên, ôm vào hay đẩy ra, để cho ác tâm bất thiện tung hoành ngang dọc, hay buông xả để được thong dong tự tại? Quyết định như thế nào, thẩm quyền thay đổi và chuyển hóa đó, đều do chính ta chứ không một ai khác làm được, vì ta chủ nhân của mọi tác tạo hành xử tự mình nhận lãnh và chịu trách nhiệm chứ không một ai khác. Nếu ta không chịu hành động, không làm hoặc không muốn làm, hoặc chỉ làm nửa vời không có sự nhẫn nại, lần lựa hẹn mãi khất mãi, thì sẽ chẳng có một ai gánh chịu dùm ta thế ta, một khi vô thường bệnh tật viếng thăm.
Khi nào tâm thức chưa được chuyển hóa, chưa buông bỏ xả ly, còn lẩn quẩn nơi cảm xúc hỉ nộ ái ố, còn để cho tam độc dẫn đưa lôi kéo, còn mải mê rong ruổi hướng vọng tìm cầu, còn tranh giành thị phi nói năng phê phán hơn thua, còn để cho thân khẩu ý đưa đường dẫn lối, vẫn để cho định kiến chủ quan lầm lẫn tai hại nắm giữ chấp chặt, thì còn phải phiền lụy trôi nỗi khổ đau dài dài đau khổ mãi mãi. Những trạng thái tâm cảnh đó, vốn tùy tiện tùy hứng đến đi, nhưng lại thường xuyên phát tiết đưa đến nguy hại bất an, ta cần phải phòng bị ngăn ngừa, nhận diện điểm danh, chuyển hóa gạn lọc. Loại trừ bất thiện nhiễm ô, tích chứa thiện lành cao quý, loại bỏ những xấu xa tác hại, lìa xa nhân quả ác nghiệp, từ bỏ những bất thiện từ nơi miệng lưỡi, đừng gây khổ đau thương tổn cho một ai, trải lòng từ bi hướng nguyện đến muôn loài. Ba nghiệp của thân khẩu ý còn là tác nhân và là mầm mống của phiền não khổ đau, đó chính là nguồn cơn mấu chốt của mọi nguyên nhân, đầu mối của mọi vấn đề. Tất cả đều có sự tương quan mật thiết kết hợp với sáu căn, trần, thức phát sinh khởi động, dẫn đầu vẫn là thức một tác nhân khó nhận diện khó dò tìm, nhưng khả năng sai khiến gây rối điều khiển thì lớn lao vô cùng. Nhưng dù là vậy cũng không thể cứ mọi chuyện mọi việc xảy ra là ta lôi tên thức ra để đổ thừa gánh tội, và càng không có nghĩa cứ để cho thức phải chịu trận chịu mọi hàm oan không một cơ hội biện hộ. Nếu chuyển hóa đúng mức, vực dậy sự linh hiện trong từng tâm thức, thức sẽ trở thành tỉnh thức giác ngộ.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật dạy: “Khi nào có sự tiếp xúc của 6 căn 6 trần 6 thức, thời có xúc, có thọ, có tưởng, có suy tư có hý luận, vọng tưởng hiện khởi, khi nào không có sự thi thiết của 6 căn, 6 trần 6 thức, thời không có sự thi thiết của xúc, thọ, tưởng, suy tư của sự hiện thành hý luận vọng tưởng” Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.
Chỉ khi nào chấm dứt sự tiếp xúc giao thoa trôi nổi vọng khởi của căn trần thức đừng để phát sinh đắm nhiễm, từ bỏ vọng tưởng khởi động, lìa xa ác nghiệp dẫn đưa, khiến chúng ta chìm mãi chìm sâu trong sông mê biển khổ. Chỉ khi nào chận đứng được mọi tác động lôi kéo nối kết, không tạo cơ hội tương thích để nó tìm cách gây hại, thì mới chấm dứt được nguồn cơn bất an đau khổ. Nếu chúng ta để nguyên vị và làm đúng chức năng của các căn, không có sự nhảy vào gây rối của thức, loại trừ những tập quán nhiễm ô bất tịnh lầm lạc mê mờ, đừng tạo dịp cho những quán tính tập khí bất thiện trổi dậy, thì sẽ không có những tác hại não phiền khổ đau đeo bám.
Điều đó phải được đánh đổi bằng sự nỗ lực tu tập tỉnh giác tinh cần, vực dậy chân tánh thường hằng, xóa bỏ mọi điên đảo mộng tưởng, chuyển hóa xúc, thọ, tưởng thành một năng lượng nhiệm mầu tương tác. Khi nào trong ta có được sự bình an lắng đọng thuần khiết, từ tâm đến cảnh từ suy tư đến hành hoạt nói năng tỏ bày. Đâu đó tự tại an nhiên giữa vô thường biến động vây quanh, một sự an tịnh cao tột nhất như, bằng tất cả tâm lực hùng lực vượt thoát ra ngoài nổi trôi hệ lụy.
Cho cùng, âm thanh ngôn ngữ đều vô thường, miệng vừa mở lời đã cao bay xa chạy, nhưng khẩu nghiệp mãi còn đọng lại, đừng tạo ác nghiệp đừng gây nhân xấu. Chỉ có tình thương yêu cao cả mới chiến thắng được hận thù và tâm ác. Chỉ có lòng từ vị tha không biên giới mới giải quyết trọn vẹn niềm đau nỗi khổ. Chỉ có thân khẩu ý thiện lành bi mẫn, mới đưa ta đến bến bờ của hạnh phúc và an lạc thật sự.
“Mong rằng tâm của ta không bị biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận”.
TU THÂN
Nuôi dưỡng những giá trị đạo đức
và phẩm hạnh cao quý
“Tinh cha huyết mẹ, chung hợp nên hình,
Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp
Chấp cho là thật, quên mất pháp thân,
Sanh dâm, sát, trộm, bèn thành ba nghiệp”.
Sát, đạo, dâm là ba thân giới Phật chế ra cho hàng Phật tử, nếu chúng ta biết ngăn ngừa gìn giữ phòng hộ cho thật trọn vẹn thì sẽ mang lại sự an lạc hạnh phúc tốt đẹp cho hiện tại và mai sau. Sự có mặt của chúng ta ở cuộc đời này đều do nghiệp lực dẫn đưa, dù giàu sang hay nghèo khó, sung sướng hay đau khổ, hoàn cảnh hay tâm cảnh có là gì đi nữa, thì tất cả đều do hạnh nghiệp. Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, tạo nên thân ác nghiệp, nhưng động cơ thúc đẩy lại là lòng tham dục, đó cũng là kết quả và hệ quả của những tác tạo gây ra, ta phải chịu phần trách nhiệm, không cách gì từ chối hay trốn chạy được.
Chúng ta đến với thế giới này là để trả nghiệp, tạo nghiệp, chuyển nghiệp, thân ta là nơi thường xuyên tạo nghiệp, “một nơi tích tụ của tội lỗi”, cử thân cất bước động niệm là đã tạo nghiệp, đi đứng ngồi nằm cũng tạo nghiệp, uống ăn làm việc cũng gây nghiệp. Nghiệp không bao giờ rời xa chúng ta, đi theo chúng ta mọi lúc mọi nơi, nó có mặt trong tất cả mọi hành động nói năng tạo tác suy nghĩ. Vấn đề ở chỗ, cố ý hay vô tình, nghiệp nặng nhẹ, tốt xấu thiện ác, tích cực tiêu cực, đều do sự chọn lựa quyết định của chính ta.
Đức Phật dạy khó khăn lắm mới được làm thân người, cũng giống như con rùa trôi trên biển biết đến bao giờ mới có được khúc cây nổi lên để bám. Có được thân người đã là quý báu, sáu căn đủ đầy lại càng quý báu hạnh phúc hơn. Nhưng nếu làm một con người có phẩm chất đạo đức, có hiểu biết trí tuệ, sống với tâm từ hành xử mọi việc thiện lành tốt đẹp, thì lại càng đáng quý và tuyệt vời hơn nữa.
Có phải do vì “Có thân nên khổ vì thân” ta lo khổ sợ khổ nên ta o bế bảo bọc tấm thân dư thừa sung mãn, bươn chải tính toán vất vả đêm ngày để nuôi nấng cung phụng, tích chứa những nhiễm ô bất thiện, lo sợ khi bệnh tật xuất hiện, đau đớn sầu khổ khi yếu đuối bệnh hoạn. Khi gặp nghịch cảnh thiếu duyên bất như ý khổ cực thiếu thốn trăm bề, chúng ta cũng không thể đổ lỗi cho cuộc đời đã bất công với mình. Hoặc khi thuận duyên may mắn đủ đầy cũng không vì thế mà tự mãn coi thường kẻ khác. Chúng ta cũng không thể chọn lựa nơi mình sinh ra, dù quốc gia đó kinh tế giàu có phát triển hay chậm tiến khó khăn, gia đình đó giàu sang hay nghèo khổ, tất cả đều do nghiệp lực dẫn dắt.
Trong chúng ta ai rồi cũng phải lần lượt bước qua bốn chặng đường của sinh, lão, bệnh, tử, chặng cuối cửa ải sau cùng đầy gian nan thách thức, chẳng ai muốn đi qua nhưng rồi sẽ phải đến, cái chết là điều không thể tránh khỏi. Ta có thể chia mốc thời gian của sáu bảy mươi năm cuộc đời, để thử tính lại xem lại được cái gì mất cái gì và còn cái gì. Rốt cuộc, ngẫm thật kỹ suy nghĩ thật sâu, cuối cùng chẳng còn gì chẳng đem theo gì được, tay trắng rồi cũng trắng tay, không lại trở về với không, ngoài nghiệp quả đeo bám. Chúng ta đối diện với bao biến động, vô thường tấn tới, kiếp người mau chóng trôi qua, phải tự mình vươn lên nỗ lực thay đổi chuyển hóa. Hành trang mang theo của những tháng ngày còn lại, không phải nhà cao cửa rộng, áo quần lụa là gấm vóc, tiền bạc rủng rỉnh, những bữa ăn đầy ắp món ngon vật lạ sơn hào hải vị, gia đình sum vầy con cháu đông đủ, mà là bệnh tật hành hạ, cô đơn thui thủi chịu đựng đớn đau, hỗ trợ y khoa, thuốc thang dùng để trị bệnh. Hành lý mang theo đi về bên ấy có là nặng hay nhẹ nghiệp, buồn chán khổ đau vây quanh gặm nhấm, phó mặc đầu hàng buông xuôi trôi nổi theo dòng đời, hay là chấp nhận bằng lòng với số phận nghiệp quả, an lạc thảnh thơi lối về hoa nở. Cho cùng, hít thở thật sâu thật tỉnh lặng, ta đủ bình tâm dũng trí nhận chân ra được cuộc đời là quán trọ, vô thường tấn tới, tìm phương thoát ly, tìm thấy sự bình an hạnh phúc đúng nghĩa, đó mới là điều cần thiết cấp bách.
Dù sống hay chết trẻ hay già khổ hay sướng, thì vẫn có một thứ luôn luôn đeo bám theo ta mãi không bao giờ rời xa, không bao giờ nhân nhượng, không loại trừ một ai cả, nhân quả nghiệp lực. Đây là một định luật công bình và bình đẳng nhất, công bình và bình đẳng ở chỗ chính ta chứ không ai khác phải chịu phần trách nhiệm, những gì mình đã gây nên những gì mình đã tác tạo đều phải trả. Cho dù ta ở đâu phương trời nào tâm cảnh nào, nó vẫn luôn níu kéo bám chặt từng phút từng giây. Dù khi sống ta là vua là chúa, binh hùng tướng mạnh, quyền cao chức trọng, có quyền có thế, lắm tiền nhiều bạc, dư ăn thừa mặc, kẻ hầu người hạ, và có là gì đi nữa. Hoặc ta là một phó thường dân, bình thường, có ăn có mặc, cơ hàn nghèo khổ, cày sâu cuốc bẩm, bửa đói bửa no, gian nan vất vả, và có là gì chăng nữa. Nhưng khi đối diện với luật nhân quả thì tất cả đều bình đẳng như nhau, chỉ có thiện, ác, hoặc không thiện không ác. Những hành vi tác tạo, lời nói ngôn ngữ, nội tâm suy nghĩ, từ nơi thân, khẩu, ý cũng chính là sự hình thành kết nối của nhân quả. Nhận diện tỉnh thức đâu là thiện ác chánh tà, là cả một quá trình tư duy quán chiếu thường nghiệm, và quan trọng nhất là làm sao để sự có mặt của chúng ta ở cuộc đời này có ý nghĩa, đáng để sống đáng để được trân trọng.
Trong sáu căn của chúng ta, thân căn vốn là điểm thường xuyên gây tranh cãi và bình phẩm nhiều nhất. Nó cũng là nguyên nhân khiến cho chúng ta lệ thuộc phụ thuộc, chạy theo làm theo thị hiếu suy nghĩ của kẻ khác, vô tình biến mình trở thành món hàng đồ chơi, tha hồ để cho kẻ khác nhặt lên hay bỏ xuống tùy vào sở thích của họ. Nuôi dưỡng o bế tấm thân, tô bồi cái ta bản ngã, bảo vệ tôn xưng ca tụng vẽ đẹp hình hài, bất chấp bằng mọi giá. Chúng ta chạy theo cái đẹp bên ngoài, để rồi tạo nhiều ác nghiệp, giết hại chúng sanh, hành động bất thiện, đắm chìm trong dục lạc. Hơn nữa những tán dương ca tụng tôn thờ vẻ đẹp, vốn không có một tiêu chuẩn rõ ràng để gọi thế nào là đẹp, tất cả đều do chúng ta bày ra đặt ra dựng lên áp đặt. Sự suy nghĩ và cái nhìn của chúng ta vốn không thật luôn méo mó và biến dạng, tất cả đều bị thời gian đào thải, phút trước có thể là đẹp nhưng phút sau chắc gì còn nguyên vẹn, bởi tính chất biến động của ý thức và sự tước đoạt của vô thường luôn chờ chực lẩn khuất đâu đây.
Thông thường chúng ta nhận xét đánh giá hình dáng thân tướng theo bản năng cảm tính đang tiềm ẩn trong ta, ta để cho những cảm xúc không thật chế ngự, ta trao quyền cho vô minh tham sân si lừa dối, ta chạy theo cảnh theo người theo bản năng tâm tánh bất thiện nhiễm ô. Chúng ta đánh giá nhận xét, khách quan chủ quan, tiêu chuẩn thước to tầm nhìn, nhiều khi cũng chỉ là sự đóng khung vẽ vời của ý thức sai biệt. Sự tôn xưng ca tụng tán dương, bình phẩm khen chê hình dáng đẹp xấu, nhiều khi cũng chỉ là sự biến động trôi nổi của ý thức, cảm tính cảm quan đến từ nhào nặn suy diễn. Nào là đẹp đẽ đoan trang, xinh đẹp nết na, nhan sắc chim sa cá lặn, bước đi dịu dàng thướt tha thuỳ mị, tướng mạo quý phái cao sang, cao ráo chân dài miên mang, vòng eo ngực bụng lý tưởng, dễ nhìn dễ mến dễ ưa, khiến cho người khác trầm trồ khen ngợi, khiến cho bao người đắm say mê mẫn, thầm thương trộm nhớ, ước ao sở hữu. Nào là, cao lớn đẹp trai, sang trọng phong độ, vai rộng tay dài, ngực nở nang, bụng ba ngấn sáu đèo, dựa vào và nhờ vào dáng vẽ hình hài đó khiến ta thành công trong công việc, tự tin vững bước, đôi lúc tự hào tự mãn tự kiêu, chê bai kẻ khác. Hoặc khi ta chỉ là người trung bình về mọi phương diện, từ vóc dáng hình thể đến gia cảnh sự nghiệp công việc, chỉ ở mức trung bình và bình thường mà thôi, nhưng lại an phận bằng lòng. Hoặc chẳng may ta không đủ tiêu chuẩn thước tấc, không đẹp cũng chẳng được trung bình, người thấp nhỏ, mập ốm cao gầy, thiếu tất cả mọi chuẩn mực, không có gì nổi bật, không để ấn tượng cho kẻ đối diện. Để có được và làm được như thế ta phải nhịn ăn tập luyện, chỉnh sửa thẩm mỹ, trợ giúp y khoa, hao tốn tiền của công sức quá độ.
Có phải chỉ vì cung phụng tấm thân, tô bồi cái tôi cái bản ngã, nuôi dưỡng lòng tham sân si lớn mạnh, ta sát sanh hại mạng, trộm cắp, tà dâm, hành xử nói năng nghĩ suy bất thiện. Có khi nào chúng ta đủ bình tâm suy nghĩ kỹ càng, một cách thành thật nghiêm túc, tại sao chúng ta khổ chúng ta đau, lầm đường lạc lối trôi nỗi lầm than, phiền não khổ đau hành hạ, sống dỡ chết dỡ? Tại sao ta nhẫn tâm, sống trong sự bất thiện hành vi xấu ác, dung dưỡng những điều xấu xa? Tại sao chúng ta phải sống trong sự buồn vui đau khổ theo từng lời khen chê bình phẩm so sánh của kẻ khác. Tại sao chúng ta hỉ hả chỉ vì lời tâng bốc ngon ngọt rủ rê lừa phỉnh của kẻ khác? Hình thể vóc dáng xấu đẹp bên ngoài cho đến ít nhiều biến động ở bên trong, đều là cái cớ lý do để người ta dựa vào đó phán xét bình luận khen chê to nhỏ. Từ mắt tai mũi miệng, kiểu dáng thân thể cao lớn béo gầy, đến y phục lùa là phấn son, tất cả đều được đưa lên bàn cân đong đếm ngắm nhìn giải phẫu mổ xẻ quan sát từng chi tiết, nhận xét từng tí từng ly. Nhưng hầu như chúng ta lại thích thú hớn hở với cái vẻ hào nhoáng ở bên ngoài đó, ta mê mẩn với lời khen tặng có cánh có hoa thật giả khó phân đó, ta vui mừng hạnh phúc với phút giây tung hô tán dương đó.
Rốt cuộc ta chỉ biết làm theo vâng theo, cắm đầu chúi mũi chạy hụt hơi theo ngôn ngữ lời khen tặng tán dương, ta hành động ra sức tốn công khổ nhọc cũng chỉ để cho người ta tung hô, ngắm nhìn khen tặng bày trò, ta o bế nâng niu đôi khi hành hạ tấm thân quá mức, khiến nó bị thương tổn đớn đau, dở khóc dở cười, cũng chỉ vì lời khen tiếng chê của kẻ khác. Ta khổ cực kiếm tiền để nuôi dưỡng tấm thân nở mặt nở mày với người thân kẻ lạ, ta vất vả đêm ngày nhịn ăn o ép tấm thân cũng chỉ vì để cho thiên hạ chiêm ngưỡng, ta tốn tiền hao bạc đau thân xót dạ, mài dũa thẩm mỹ cắt xén thêm bớt, cũng chỉ vì làm cho đẹp cho sang cho chảnh, để kẻ khác nể nang trầm trồ xuýt xoa khen ngợi. Ta gồng mình trả nợ mua sắm xe sang nhà cao cửa rộng, để cho kẻ khác lóa mắt tiếc thầm gật gù nổ tung, ta nợ ngập đầu chất chồng quanh năm suốt tháng, hụi chết hụi non cũng chỉ vì lo cho tấm thân tứ đại này mà ra, giết hại biết bao sinh mạng, phạm phải biết bao lần thân giới, gây biết bao tội nghiệp nguy hại. Rốt cuộc, vì cái gì điều gì tại sao khiến cho chúng ta vất vả đêm ngày quên ăn bỏ ngủ lo toan quần quật, tạo bao ác nghiệp, phạm biết bao giới cấm như thế? Vì thân cho thân cho ngã của mình, một sự lạc lối và lầm lạc.
Thân tướng như thế nào đi nữa, cường tráng khỏe mạnh, đủ đầy hay khiếm khuyết, bệnh tật ốm đau, có là gì đi nữa, tất cả đều do phước báo nghiệp quả, và cũng có một phần do chúng ta biết cách gìn giữ tiết độ hay không. Có sự nghịch lý, phần nhiều chúng ta chỉ lo việc để ý phê phán tướng mạo y phục của người khác hơn là nhìn lại chính mình, kiểm soát tâm tính hành vi chính mình, ta khắc khe với kẻ khác nhưng lại dễ giải với mình. Sự phê phán ngộ nhận đều đến từ cảm tính của sự mặc cảm ích kỷ tự ti tự tôn, bản tánh vốn chất chứa những nhiễm ô bất thiện, nặng phần dáng vẻ bên ngoài hơn là nhìn thấy vẻ đẹp nơi nội tâm của họ. Chúng ta phê phán tranh cãi những hành xử nói năng, những biểu hiện ở bên ngoài nhiều hơn là thấy được bản chất thiện lành nơi mỗi con người, những hành động bất thiện hiếu sát, gây mất mát tổn hại khổ đau cho người khác nhiều khi ta lại hời hợt chẳng xem trọng. Vẻ đẹp hoàn hảo là phải kể đến cái đẹp ở nội tâm, những hành xử nói năng cao quý, rất ít khi chúng ta nhìn ra được nguyên nhân, vì đâu do đâu dẫn đến đưa lại như thế, để từ đó và nhân đó tạo cho mình một sự đổi thay lành mạnh hướng thiện. Dù có được tất cả hay chẳng có gì, trung bình hay xấu xí, thì bệnh tật khổ đau sẽ không chừa một ai, không bỏ sót một người nào, khi sanh ly tử biệt ta bỏ tất cả để ra đi, vẫn hai bàn tay trắng chỉ có nghiệp quả dính chặt bám theo.
Có hai cực đoan mà người có trí thường xa lánh và từ bỏ, đó là việc chấp chặt cái tôi và những gì thuộc về tôi, ngã và ngã sở. Tôi và của tôi hai mệnh đề đó mới nghe qua nói đến thì rất đơn giản, nhưng lại kéo theo biết bao hệ lụy, phiền não, khổ đau. Có phải cái tôi là cái đáng ghét nhất? Vậy cái của tôi những gì thuộc của tôi thì sao? Trong tất cả mọi hành xử tác tạo nói năng suy nghĩ đều, tùy vào khía cạnh tích cực hay tiêu cực, thiện hay bất thiện, tựu chung hể còn bám vào cái tôi nuôi dưỡng cái tôi, chấp chặt mang nặng bản ngã và ngả sở, thì đều đáng ghét đáng lên án. Nhưng vấn đề ở chỗ là lấy cái gì để lên án thẩm quyền gì để phán xét, không lẽ lại lấy cái tôi này để nhận định lên án phán xét cái tôi khác, cái vòng luẩn quẩn nhiêu khê tới lui cũng chỉ là vậy.
Cái tôi những gì thuộc về tôi của tôi, những điều đó thứ đó có cái nào điều gì không bị lệ thuộc và phụ thuộc, và có tự tính riêng rẽ? Thật rõ ràng, cái mà ta cho là bản ngã và ngã sở vốn không có chủ thể, không tự tồn tại độc lập, tất cả đều là giả hợp vay mượn, nương tựa kết hợp mà thành, không có thực tính độc lập để hình thành tạo nên. Thân này là sự kết tập của đất, nước, gió, lửa, thời không, với tinh cha huyết mẹ mà thành. Vậy thì cái tôi và của tôi không có cơ may để tự tồn tại, để chính thức gọi tên để lên mặt vênh váo ra oai tác quái, nó đáng ghét là lúc chúng ta bám vào o bế dung dưỡng cho cái tôi chấp chặt cái ngã sở đó, gây tạo biết bao ác nghiệp cho thân khẩu ý.
Sám Hối Sáu Căn, phần thân căn, những lời dạy bảo nhắc nhở rất thiết thực, vô cùng ý nghĩa, trong việc gìn giữ phòng hộ các căn tu tập thiện pháp, do vị Thiền sư Cư sĩ siêu việt Trần Thái Tông (1218-1277) sáng tác.
Nghiệp căn Thân là:
“Tinh cha huyết mẹ, chung hợp nên hình,
Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp.
Chấp cho là thật, quên mất pháp thân,
Sanh dâm, sát, trộm, bèn thành ba nghiệp”:
a. Nghiệp Sát Sanh là:
“Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ,
Giết hại bốn loài, đâu biết một thể.
Lầm hại cố giết, tự làm dạy người,
Hoặc tìm thầy bùa, đem về ếm đối.
Hoặc làm thuốc độc, để hại sinh linh,
Chỉ cốt hại người, không hề thương vật.
Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe suối,
Buông chài bủa lưới, xuýt chó thả chim,
Thấy nghe tùy hỷ, niệm dấy tưởng làm,
Cử động vận hành, đều là tội lỗi”.
b. Nghiệp Trộm Cắp là:
“Thấy tài bảo người, thầm khởi tâm tà,
Phá khóa cạy then, sờ bao mò túi.
Thấy của thường trụ, lòng dấy khởi tham,
Trộm của nhà chùa, không sợ Thần giận.
Không những vàng ngọc, mới mắc tội to,
Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm”.
c. Nghiệp Tà Dâm là:
“Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son,
Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục.
Hoặc nơi đất Phật, chánh điện phòng Tăng,
Cư sĩ gái trai, đụng chạm đùa giỡn.
Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề vai,
Khoét ngạch trèo tường, đều là dâm nghiệp.
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Đến lúc mạng chung, đều vào địa ngục.
Gái nằm giường sắt, trai ôm cột đồng,
Muôn kiếp tái sanh, lại chịu tội báo.
Nếu không sám hối khó được tiêu trừ
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối”.
Đệ tử chúng con, chí tâm phát nguyện:
“Một nguyện mạng căn chóng thành trí tuệ
Hai nguyện thể tướng, biến thành chân như
Ba nguyện gieo mình, cầu đại pháp bảo
Bốn nguyện vào lửa, ngộ được thâm nhân
Năm nguyện đốt thân, đền đáp Phật đức
Sáu nguyện chẻ tủy, đáp ơn thầy tổ
Bảy nguyện xin đầu, trọn chẳng tiết thương
Tám nguyện móc mắt, cũng là thân nhân
Chín nguyện thoa hương, không có thích thú
Mười nguyện cắt thịt, chẳng sanh sân tâm
Nguyện thứ mười một, đời đời không đắm
Và nguyện mười hai, kiếp kiếp thoát tục”.
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Đâu là nguyên nhân mấu chốt, đâu là nguyên cớ thật sự của vấn đề, có phải vô minh, tham sân si, lòng tham ái, sự đắm nhiễm dục lạc, không có trí tuệ thiếu sự tỉnh thức sáng suốt, xử sự theo cảm tính và quán tính, tập khí thói hư nhiễm ô? Sẽ không có kết qủa tốt đẹp nào và càng không có sự tự nhiên nào đem đến mang lại, nếu chúng ta không nỗ lực dự phần thực hiện không tạo nên không làm ra. Khi chúng ta biết chuyển hướng, nhìn một cách bình đẳng tích cực, thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ và thành Phật,. Do vậy không có lý do gì để chúng ta có quyền sát sanh hại mạng, gây nguy hại thương tổn đau khổ cho một ai chúng sanh nào, chê bai đánh giá hạ thấp kẻ khác, chà đạp nhân phẩm tước đoạt tự do quyền sống. Lên án bình phẩm kẻ khác hay dối lòng khen ngợi mua vui, hành xử nói năng suy nghĩ bất thiện xấu ác, đó không phải là một thứ quyền do ai đó ban phát cho ta hay bắt buộc ta cả, ta phải hết sức cẩn trọng bởi ta đang tạo nghiệp.
Tất cả đều do ta tại ta lỗi ở ta, tại ta cứ đòi một chút rồi thêm một chút, lỗi ở ta đã làm sai rồi lại cứ mãi làm sai. Tại ta bị chính cái tên giặc ý thức mê mờ tham ái dục vọng vô minh xúi dục điều khiển, tại ta thêm một chút nhiễm ô bất thiện rồi chồng thêm một chút nữa, rồi lại chồng mãi cao mãi. Cứ thế vòng kim cô tham sân si nghiệt ngã đeo cứng bám chặt, cứ thế lầm than đau khổ vô minh dày xéo tâm can, cứ vậy chúng ta đêm ngày tha hồ gây tạo tác yêu tác quái, gây biết bao nhân xấu ác bất thiện, giết hại biết bao chúng sanh, gây tổn hại gieo rắc biết bao niềm đau nỗi khổ cho mình cho người. Chừng nào và bao giờ mới lấp đầy những đòi hỏi ham muốn, những tham vọng dâng cao đầy giẫy trong ta. Chừng nào và bao giờ ta mới kịp dừng lại, chấm dứt mọi hành xử bất thiện, nhìn xa trông rộng thấy bến thấy bờ. Chừng nào và bao giờ ta mới thật sự thoát khỏi lầm than về với chân như giác ngộ thường hằng?
Ta đợi ta chờ, đến khi vô thường dạo bước cướp mất trắng tay, bệnh tật tứ bề thăm viếng, ta mới giật mình tỉnh mộng, lúc ấy có muộn màng rồi chăng? Thì ra, điều mà chúng ta cần nhất đó là ánh sáng của trí tuệ sáng soi, tỉnh thức trong từng bước đi hơi thở, ta hạnh phúc an lạc biết chừng nào, không lo sợ bị vô thường tước đoạt giành giật. Đã đến lúc chúng ta dừng lại biết đoạn trừ lìa bỏ, ác tâm bất thiện, quyết lòng chuyển hóa, gìn giữ phát huy tăng trưởng thiện nghiệp điều lành, thì chúng ta mới có được hạnh phúc an lạc ở bây giờ và mai sau. Điều thiện việc tốt lành là phải thường xuyên nỗ lực tu tập nâng cao phẩm chất, từ nội tâm đến ngoại tướng, từ tư tưởng suy nghĩ đến hành xử nói năng. Một con người thường sống với điều thiện, tác tạo việc thiện an trú trong cảnh giới thiện lành, thì trong họ lúc nào và bao giờ cũng lan tỏa năng lượng từ bi an lành cao quý, làm chỗ dựa mong tin tưởng vững chắc cho mọi người.
Sát, đạo, dâm những hành vi bất thiện gây nên thân nghiệp chất chồng, chúng ta phải chấm dứt và chuyển hóa để cho thân nhẹ tâm an.
1, Sát sanh hại vật, bản tính hiếu sát
“Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ,
Giết hại bốn loài, đâu biết một thể”.
Có phải giết hại chúng sanh trở thành thói quen, một thứ bản tính hiếu sát luôn tàng chứa trong mỗi chúng ta? Giết hại bằng cách này hay cách khác, để ăn thịt hoặc chỉ nhằm thỏa mãn bản năng thích giết hại, tự mình giết, thấy người khác giết hại sanh tâm vui mừng, khuyến khích tán đồng kể khác giết hại. Thói quen giết hại hiếu sát, nó vốn tích lũy sâu dày trong ta từ trước, bản tánh đó nếu có cơ hội lập tức trỗi dậy ngay, nó nhanh đến độ không cho ta cơ hội chần chừ suy nghĩ. Nhất là khi ở dạng vi tế, có thể khi ra tay giết hại những con vật lớn hơn ta không làm hoặc chần chừ suy tính. Nhưng nếu khi ta bị con muỗi cắn, với phản ứng tức thì lập tức ta giết ngay, khi gặp con ruồi bay đậu vào trong thức ăn, lập tức ta xua đuổi hoặc lấy đồ đập cho con ruồi chết ngay, khi thấy con gián chạy vào nhà dù ta đang làm việc gì đó, nhưng cũng đứng dậy ngay tìm thứ gì để đập nó, hoặc dùng thuốc để giết nó ngay. Có phải vì ruồi đụng đến đồ ăn thức uống thực phẩm của ta, muỗi chích làm ta ngứa ngáy khó chịu, sợ nó gieo rắc mầm bệnh, vi trùng, lây bệnh nhiễm bệnh cho ta, nghĩa là những việc đó có liên hệ, đều liên quan ảnh hưởng đến cái thân cái ngã của ta cả. Như vậy những gì chạm đến ta đụng đến ta, lập tức ta phản ứng lại, bằng cách này hay cách khác, sự phản ứng đáp trả đó diễn ra thông qua thân khẩu ý, hành động lời nói và trong ý nghĩ, tóm lại đằng nào nó cũng sẽ xảy ra chỉ là tuỳ theo thời gian và mức độ. Nhưng nếu với người có tu tập, có sự kiểm soát về thân khẩu ý, thì có sự khác biệt rất lớn. Nó sẽ không biểu hiện qua hành động, ngôn ngữ, và ngay cả tư tưởng một cách tùy tiện thông tục, bởi các căn đã được chuyển hóa thấm nhuần từ bi trí tuệ. Nên những khởi dậy cũng rất từ tốn dễ thương thể hiện lòng từ bi, chứ không hành động theo bản năng bất thiện sai sử, tìm cách nhẹ nhàng để đuổi chúng đi nhưng không giết hại chúng. Ai cũng sợ bệnh và sợ chúng gieo mầm bệnh, nhưng không phải vì lý do đó mà ta phải ra tay giết chúng, hơn nữa giết chúng cũng không thể cứu được ta ngay, phòng vệ và giữ gìn là cách chuẩn bị hợp lý nhất. Giết hại sinh mạng của những chúng sanh khác để nuôi dưỡng sinh mạng của ta thì đây lại là điều nghịch lý nhất, chúng ta có quyền sống muốn sống được sống, bảo vệ sự sống cho ta, thì cớ gì chúng ta can tâm sát hại sinh mạng của chúng sanh khác, để phục vụ dưỡng nuôi thân ta? Chúng ta có quyền chọn lựa thức ăn cho mình, theo sở thích của riêng mình, thích ăn thứ gì kiểu gì, nên ăn và không ăn cái gì. Nhưng những sinh vật bị ta giết hại thì lại không hề có một thứ quyền gì cả, ngay cả quyền được chết. Nếu sự sống là bình đẳng, con người và sinh vật đều có sự sống và tham sống như nhau, thì hà cớ gì chúng ta nở sát hại cướp đi mạng sống của chúng sanh khác?
Nếu những sinh vật biết nói và loài người biết nghe được tiếng nói của loài vật, thì quả thật chúng ta là một loại virus đáng sợ vô cùng. Chúng ta tàn phá môi trường giết hại triệt tiêu tất cả, từ con vật lớn đến chúng sinh bé nhỏ để ăn thịt hoặc thỏa mãn bản tính hiếu sát, từ thiên nhiên cho đến đồng loại, từ chuyện lớn cho đến việc nhỏ, từ suy nghĩ cho đến hành động, nhằm sát hại triệt tiêu chèn ép lẫn nhau, dành phần lớn phần to phần nhiều về mình, về quốc gia của mình. Chiến tranh thù hận tước đoạt áp bức triệt tiêu bỏ tù đày đọa, do quan điểm chính trị sai khác, niềm tin tôn giáo, bất đồng ý thức hệ, bệnh sùng bái lãnh tụ thần tượng, ức hiếp tự do tước đoạt nhân quyền, là những căn bệnh trầm kha, thâm căn cố đế của con người, thấm vào tận xương tủy tự bao giờ.
Cũng chỉ nuôi dưỡng vỗ về cái tôi bản ngã, những gì thuộc về tôi, của chúng ta của gia đình dân tộc chúng ta. Sự hung hăng thức dậy, tự hào tự mãn dân tộc tính lại nổi lên. Không có sự khoan nhượng, những áp đặt chủ nghĩa lý thuyết mơ hồ lệch lạc tai hại, thách đố tính toàn vẹn và những giá trị cốt lõi, thiếu vắng nhân bản dân chủ nhân quyền, tình người. Chỉ biết cuồng nộ tung hô tôn sùng bất chấp, hùa theo bản năng bất thiện, vô minh tham sân si xúi dục, không chịu hướng thiện thay đổi thói hư tật xấu lầm lạc tai hại.
Không những vậy con người còn phát minh ra những vũ khí giết người sát hại đồng loại hàng loạt, vũ khí hiện đại, hạt nhân nguyên tử, hóa học vi trùng, khi ra tay tàn sát không chỉ vài người vài đối tượng mà con số sẽ lớn lao vô cùng, nơi nào bị tấn công bị tàn sát, phải mất nhiều năm mới khôi phục lại. Chúng ta đã có quá nhiều những cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau, do tranh giành chủng tộc, bất đồng tôn giáo, ý thức hệ niềm tin, thỏa mãn tham vọng, bành trướng thế lực, lòng thù hận, là những lý do góp phần dẫn đến chiến tranh tàn sát giết hại, những trận giết hại chết chóc kinh hoàng, tàn phá thiên nhiên môi trường sự sống, gây đau khổ thương tổn đến muôn loài. Núp bóng dưới mọi chiêu bài, tôn giáo, chủ nghĩa, quốc gia dân tộc, bành trướng lãnh thổ, trục lợi cá nhân, can tâm huỷ hoại môi trường sống, tàn phá thiên nhiên, thâu tóm tài nguyên của cải, tất cả chỉ để thoả mãn lòng tham sân si vô minh, tánh ác bất thiện. Chừng nào chúng ta mới xoá bỏ mọi ngăn ngại biên cương chủng tộc, hận thù dị biệt, chung sống hòa bình thương yêu tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau xây dựng những giá trị nhân bản tánh thiện lành cao quý?
Trong tất cả các loài, chỉ có loài người là biết mình sẽ chết, nhưng để chuẩn bị cho cái chết, thì chúng ta lại thờ ơ, không quan tâm và ít chuẩn bị. Chết là điều sẽ xảy ra sẽ tới, chỉ là chậm hay mau bao giờ và lúc nào, biết mình phải chết sẽ chết đó là một sự nhận biết tích cực, biết rằng khi chết không mang theo được một thứ gì cả, tại sao cả đời lại phải vất vả khổ cực tích góp tiền bạc của cải, lo làm lo nuôi o bế cung phụng tấm thân? Một sự nghịch lý và điều hết sức phi lý, chúng ta quên đi tất cả bỏ qua mọi thứ, để tìm mọi cách tranh giành lợi lộc, mánh mung lường gạt, tích cóp cưu mang ác nghiệp, nuôi dưỡng vỗ về tấm thân tứ đại đủ đầy no đủ, dung dưỡng bản ngã lòng tham tâm bất thiện. Trong ta không hề có sự từ bi, thiếu vắng tâm thiện ý lành, làm thế nào để chúng ta biết nuôi dưỡng tâm từ lòng yêu thương, sự tử tế lòng bao dung độ lượng, tìm thấy giá trị ý nghĩa chung cuộc.
“Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh.
Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.
Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài”.
Kinh Thương Yêu, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
2, Trộm cắp, lấy của không cho
...“Không những vàng ngọc, mới mắc tội to,
Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm”...
Trộm cắp, tìm mọi cách để chiếm đoạt sở hữu là một hành vi xấu, những gì không phải của mình không thuộc về mình, không có sự đồng ý của người, thì tuyệt đối không được lấy. Cho dù vật đó có giá trị hay không, hoặc món đồ đó nhỏ không đáng giá cũng không được khởi lên lòng tham ý tưởng chiếm đoạt. Một khi có ý định và hành động để đạt mục đích, thì lập tức cấu thành nghiệp trộm. Lòng tham sự thoả mãn chính là lý do thúc đẩy hình thành những hành vi bất thiện, sự lười biếng biếng nhác cũng là nguyên do sinh nông nổi. Không nóng giận sân si, không làm điều ác việc xấu, không xúi người làm, không vui mừng tán đồng khi thấy người khác làm. Đó là những nguyên tắc tạo nên thiên nghiệp, để thân nhẹ tâm an sống đời an vui hạnh phúc.
3, Tà dâm, sống tà hạnh
“Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son,
Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục”...
Những hành vi tham dục ái nhiễm làm cho chúng ta mất đi nhân phẩm tư cách đạo đức. Sống tà hạnh trong các dục lạc, lòng tham ái lên ngôi níu kéo dẫn dắt, khiến ta trôi nỗi đắm chìm nơi sông mê bể ái, mê mờ không lối thoát, ra sức tốn công chiếm đoạt sở hữu, chiều chuộng bản ngã lòng tham tâm bất chánh. Đêm ngày chạy theo bản tánh bất thiện, hả hê với hành vi xấu ác, dung chứa tà hạnh đắm say dục lạc. Tâm tánh nhiễm ô, nặng lòng dục vọng, đam mê nhục dục, thỏa mãn bản năng nhu cầu, hướng vọng tìm kiếm khoái cảm, thiếu lòng thủy chung, phá vỡ hôn nhân gia đình, gây đổ vỡ tình yêu, tiêu hủy đạo đức bản thân. Lòng tham ái dục lạc, là những nguyên nhân, một dạng tâm lý bất thiện những hành vi xấu ác, một cách sống thường xuyên mơ tưởng, ám ảnh bởi những đam mê xác thịt, tự mình đánh mất nhân phẩm lòng tin, thiếu vắng tình người, không có sự nhân nhượng khoan dung, không có tỉnh táo sỉ diện.
Để trở thành một con người thiện lành cao cả, đáng được quý trọng kính yêu, ta phải nỗ lực hoàn thiện tự thân, tăng trưởng tâm thiện tánh lành, từ bỏ bất thiện nhiễm ô, hướng nguyện đến muôn loài chúng sanh. Chúng ta không những không được sát sanh hại vật, bây giờ ta phải biết nuôi dưỡng và phát huy tâm từ bi lòng yêu thương rộng lớn. Không được trộm cắp lấy của người, ta còn phải thường xuyên bố thí hành thiện tích phước. Đã không có những hành vi tà dâm ý nghĩ xấu, chúng ta còn phải nỗ lực đấu tranh bảo vệ nhân phẩm, gìn giữ những giá trị đạo đức cao quý.
1, Nuôi dưỡng lòng từ bi.
“Nguyện móc mắt, cũng là thân nhân
Nguyện cắt thịt, chẳng sanh sân tâm”.
Một người có phẩm hạnh cao cả là người đó thường xuyên nuôi dưỡng lòng từ bi ban trãi yêu thương đến với muôn loài. Cho dù có bị mắng chửi đánh đập vì sự bảo vệ che chở, vì lòng từ dâng tặng ban ra, ta cũng không hề chùn bước thối lòng nhụt chí. Cho dù tánh mạng có bị thương tổn hiểm nguy, nhưng lòng từ tâm bi vẫn không suy giảm, không khởi niềm oán trách sân hận. Tất cả chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp từng là quyến thuộc bạn hữu của nhau, do vì tạo nhiều ác nghiệp nên phải luân hồi đọa lạc trong những hình hài khác nhau. Chúng ta hết lòng dưỡng nuôi tăng trưởng lòng từ bi, bảo vệ sự sống của muôn loài, chỉ có lòng từ tâm bi mới đem lại cho chúng ta niềm hỷ lạc, thường sống với tâm bi mẫn yêu thương là cuộc sống đầy ý nghĩa và cao đẹp.
“Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự giết hại, chấm dứt sự giết hại, buông bỏ khí giới, biết hổ biết thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi loài sinh vật, kể cả các loại côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại.
Đó là giới pháp thứ nhất mà người đệ tử áo trắng hộ trì”.
Kinh Người Áo Trắng, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Lòng từ bi thương yêu trao ra ban tặng sẽ không bao giờ cạn kiệt, không bị hư hao chẳng hề mất mát, là bi nguyện độ sanh hạnh lành cao quý, rộng lớn bao la trùng khắp, vượt mọi ngăn ngại chướng duyên hoàn thành tâm nguyện cứu độ, chuyển mê khai ngộ. Lòng từ bi lan tỏa, suối nguồn bi mẫn tuôn chảy, dưỡng nuôi yêu thương đêm ngày rạng rỡ, xoa dịu niềm đau nỗi khổ, cứu vớt lầm than. Nhiều khi chỉ cần ánh mắt dịu hiền, nụ cười dễ thương từ ái, tâm lượng bao dung, vòng tay đầy ắp tình người là đã mang đến sự an lòng cho kẻ khác, một chút bình an cho người đối diện, là ta đã góp phần đón chào hạnh phúc một cách thiết thực và an lòng.
“Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ một cái gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất.
Không lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt thành trí giác, hành giả sẽ chắc chắn vượt khỏi tử sinh”.
Kinh Thương Yêu, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Để lòng từ bi được trọn vẹn và viên mãn, cho đến trọn đời quyết không giết hại chúng sanh nào dù đó một sinh mạng bé nhỏ. Cho đến trọn đời không gây đau khổ thương tổn cho một ai chúng sanh nào, trọn đời không tạo ác nghiệp, hướng nguyện cứu giúp muôn loài, hoàn thành sự nghiệp giác ngộ.
2, Bố thí, hành thiện tích phước
“Nguyện xin đầu, trọn chẳng tiết thương.
Nguyện đốt thân đền đáp Phật đức.
Nguyện chẻ tủy đáp ơn Thầy tổ”...
Đã không trộm cắp lấy của không cho, vật gì không phải của mình thì nhất định không bao giờ lấy hoặc có ý có lòng chiếm đoạt, còn phải thực hiện hạnh lành bố thí một cách trọn vẹn, một lòng hướng thiện quyết chí tu thân đền đáp thâm ân chư Phật, Thầy Tổ. Bố thí là nền tảng vững chắc để hành trì thiện pháp, sự lớn mạnh của việc trì giới sẽ thay đổi chuyển hóa nội tâm đem đến sự hỷ lạc, khơi mở nguồn tuệ giác. Bố thí một cách trọn vẹn không cần đền đáp, không cần trả ơn, không cần ghi nhớ, không đòi hỏi điều kiện. Thông thường chúng ta chỉ biết tích lũy nhận vào chứ không chịu trao ra, nhặt lên cầm giữ chứ không chịu bỏ xuống buông đi, ôm giữ vào chứ không chịu mở cõi lòng cho đi. Trong khi đó trao ra là một thứ hạnh phúc, tặng cho người là một niềm vui, dâng đến cho đời đóa hoa từ tâm, thấy người vui là lòng hoan hỷ. Bố thí là một hạnh lành, còn là nghĩa cử cao đẹp, bố thí như pháp làm đúng với chánh pháp.
“Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự không cho mà lấy, chấm dứt sự không cho mà lấy, thường ưa bố thí, tìm niềm vui trong sự bố thí và bố thí mà không cầu đền đáp. Vị này không bị tâm trạng tham lam che lấp, luôn luôn bảo hộ sự liêm khiết của mình và diệt trừ tận gốc sự không cho mà lấy.
Đó là giới pháp thứ hai mà người đệ tử áo trắng hộ trì”.
Kinh Người Áo Trắng, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Khi chúng ta giúp đỡ hay bố thí cho những người gặp khó khăn đau khổ, tài thí hay pháp thí vật chất hay tấm lòng, đều đáng quý đáng được trân trọng. Có những mảnh đời bất hạnh có những con người khổ đau, cả đời lam lũ, quần quật làm lụng quanh năm suốt tháng, chạy vạy từng bữa, vẫn không đủ ăn đủ mặt vẫn nghèo khổ thiếu thốn trăm bề, khi thì thiên tai hoàn cảnh, nhân họa bệnh tật đói nghèo, rất cần đến sự giúp đỡ của những ai giàu lòng hảo tâm giang tay cứu vớt. Khi gặp những đau khổ buồn phiền tai ương trong cuộc sống, những lời pháp những lời chỉ bảo chân thật, lại là ngọn đuốc soi đường trong đêm tối giúp họ tìm thấy lối ra, tìm đến chân lý để vơi bớt nỗi khổ niềm đau. Lòng tử tế, sự bao dung độ lượng, tâm thiện ý lành là những công hạnh cao đẹp giúp người đến chỗ an vui, thường sống lạc an với chánh pháp.
3, Rời xa ái nhiễm dục lạc
“Nguyện đời đời không đắm
Nguyện kiếp kiếp thoát tục”.
Chấm dứt mọi hành động tham dục ái nhiễm, quyết tâm bảo vệ và gìn giữ những giá trị đạo đức, tăng trưởng phẩm hạnh cao quý. Một con người thiện lành là con người đó hoàn toàn rời xa sự đắm nhiễm dục lạc, không tạo cơ hội để tà hạnh khởi phát, thoát ra ngoài sự ràng buộc của tham ái dục nhiễm, hướng đến sự an lạc giải thoát. Cho đến trọn đời, một lòng rời bỏ tà dâm, lìa xa ái nhiễm dục lạc. Cho đến trọn đời, giữ thân trong sạch, hộ trì giới pháp, tăng trưởng thiện pháp.
“Vị đệ tử áo trắng xa lìa tà dâm, chấm dứt sự tà dâm, bảo vệ cho bất cứ ai, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha, mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác, kể cả kẻ bị cuồng dâm khủng bố, hoặc kẻ bán phấn buôn hương. Vị này diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm.
Đó là giới pháp thứ ba mà người đệ tử áo trắng hộ trì”.
Kinh Người Áo Trắng, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Hạnh phúc và an lạc chỉ có mặt là khi chúng ta không giết hại không làm đau khổ cho một ai, không gây đau đớn tổn hại cho một chúng sanh nào, lìa bỏ những thói hư tật xấu nhiễm ô bất thiện, đoạn trừ vô minh tham sân si, nuôi dưỡng trăng tưởng tâm tốt hạnh lành. Hạnh phúc lạc an đích thật là khi lòng từ bi lan tỏa, tâm thiện ý lành gieo rắc muôn phương, trí tuệ sáng soi trên lối về tỉnh thức. Khi ta buông bỏ nhẹ gánh lo toan, không giận hờn oán trách, không tranh giành được mất hơn thua, bằng lòng hoan hỷ đón nhận tất cả là nhân là quả, bình thản những gì phải đến sẽ đến, những gì phải đi sẽ đi, cho thân nhẹ tâm an lòng hoan hỷ với hiện tại bây giờ. Dù cho vô thường biến động vây quanh, ra sức tước đoạt, nhưng nếu nhận biết thì đó lại là sự nhắc nhở khiến cho chúng ta trưởng thành, nhận chân giá trị tích cực của cuộc sống. Chỉ ở trong cõi vô thường mới tìm thấy chân thường, trong khổ đau mới có giải thoát, khi ta tỉnh thức nhận biết thấu đáo, lúc ấy chân tánh thường tại tự nhiên xuất hiện, hiển lộ nguyên hình nằm ngay trước mặt. Ta tu tập trong mọi cảnh duyên, thuận nghịch cũng đều có sự thử thách, hết lòng dốc sức nỗ lực vượt qua, quân bình trạng thái tâm lý, bình thản trong mọi biến động, vươn lên chuyển hóa nỗi lo sự khổ trở thành niềm an lạc, thoát khỏi sông mê bể khổ về với thường hằng.
Ba thiện nghiệp và ác nghiệp của thân
Trong mười thiện nghiệp và ác nghiệp do thân, khẩu, ý mang lại, thân có ba nghiệp, miệng có bốn và ý có ba. Ba nghiệp của thân gồm có: sát sanh, trộm cướp, tà dâm. Bốn nghiệp của miệng: nói dối, nói lời chia rẽ, nói nặng lời, nói lời vô nghĩa. Ba nghiệp của ý: tham, sân, si hay còn gọi là tam độc. Đó là mười nghiệp lớn của con người, từ những cửa ngõ nguồn cơn này đưa đẩy chúng ta trôi lăn trong sông mê bể ái, chìm đắm trong đau khổ trầm luân, đẩy ta về với phiền muộn biến động bất an, đi mãi miết trong ba cõi sáu đường. Nhưng cũng chính từ đây từ những tác nhân tác ý gieo tạo này, nếu ta biết dừng lại biết lìa xa chấm dứt, làm mới đổi thay chuyển hóa, đoạn trừ chận đứng những bất thiện, nâng cao phẩm hạnh, kiềm chế những tác tạo đi lại của thân miệng ý, phù hợp với chân lý như thật, chúng ta mới thật sự có được an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại.
Đức Phật ca ngợi sự thành tựu tốt đẹp ở hiện tại và mai sau cho những ai biết gìn giữ phát huy và tăng trưởng thiện nghiệp, đời sống hiện tại được an lành, sau khi mạng chung sanh về thiện giới. Ngược lại, những ai gây tạo ác nghiệp sẽ bị nghiệp quả lôi kéo dẫn dắt đọa lạc về nơi tăm tối trầm luân.
Ba ác nghiệp của thân:
1) “Có người sát sanh, tàn nhẫn , tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.
2) Người này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy.
3) Người ấy sống tà hạnh với các dục lạc, liên hệ đến dục tình với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa”.
Ba thiện nghiệp của thân:
1) “Có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loại hữu tình.
2) Từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy.
3) Từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không liên hệ đến dục tình với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa”.
Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch
Thông thường, chỉ khi tâm thiện ý lành, hành xử nói năng suy nghĩ luôn tốt đẹp, lợi mình lạc người, chỉ có giữ gìn thân giới trong sạch mới đem lại sự an vui hạnh phúc thật sự, chỉ khi gieo nhân thiện thì mới có quả lành, thiện nghiệp mới có thiện quả. Khi ta cầu mà không được muốn mà không xong, làm mà chưa kết quả, hoặc khi nghịch cảnh chướng duyên, ta lại rơi vào trạng thái ấm ức bực bội đau khổ, trách mình oán người, đổ thừa nghiệp duyên số phận phũ phàng. Dù là vậy, ta vẫn chưa chịu học bài học của vô thường nhân quả, ta vẫn chưa nhận thức được vấn đề, ta vẫn còn chạy loanh quanh mộng tưởng, ta vẫn chưa dám đương đầu trực với sự thật. Dù ta thường xuyên đối diện, chung sống với mọi cảnh duyên, với vô thường khổ đau đêm ngày chi phối, thân khổ tâm bất an. Nếu muốn vượt qua ta cần phải quán chiếu tỉnh thức trong mọi tình huống, thường sống trong sự hiểu biết nhìn rõ chân tướng mọi thứ chung quanh, tạo mọi thắng duyên để trí tuệ sáng soi mở lối.
Thật ra khi chúng ta còn thở được, còn nhận biết còn tương tác được với mọi thứ chung quanh, thân thể đủ đầy các căn còn hoạt động, đó cũng là một thứ hạnh phúc quý giá rồi. Có biết bao người sinh ra đã không được đủ đầy, bệnh tật nghèo khổ tai nạn các căn khiếm khuyết, nhưng họ vẫn phải sống vươn lên để tự tồn tại, tìm niềm vui trong sự thiếu hụt, tìm lối sống cách sống phương tiện sống giữa muôn vàn khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn sống và cố gắng sống cho thật ý nghĩa, bằng cách này cách nọ. Không những vậy, họ còn hết lòng phụng sự và cống hiến cho xã hội con người, họ vẫn làm được và làm thật tốt, tấm lòng đó đáng được trân quý đáng được tán dương. Chúng ta may mắn hơn, nhưng lại khiến cho mình thêm đau thêm khổ, thiếu sự bao dung lòng từ, lòng tham lôi kéo sân hận nổi lên che mờ tất cả, hại vật làm khổ người gây biết bao nghiệp chướng. Khi tấm thân tứ đại réo gọi, bệnh tật viếng thăm, nhắc nhở vô thường, sinh già bệnh chết lù lù xuất hiện, lúc đó ta mới giật mình hốt hoảng lo sợ. Nếu ta biết thực tập theo chánh pháp, nhận diện mọi thứ mọi điều, vượt lên số phận nghiệp quả để an vui nhẹ bước, để thấy rằng trong chúng ta ai lại không đi qua chặng đường sinh ly tử biệt, có ai sống mãi để buồn vui cau có. Ta cần phải chuẩn bị thật tốt, và đón nhận nó trong sự hoan hỷ cùng tuyệt, âu đó cũng là một thứ hạnh phúc tuyệt diệu rồi vậy.
Khi sáu căn, trần, thức gặp nhau các dục sẽ theo đó phát sinh đắm nhiễm, phiền não đau khổ nối kết tích tụ. Phật dạy: “Có 5 đặc tánh của dục, đáng yêu, đáng mơ tưởng, hoan hỷ đi đôi với dục, khiến cho người ta ham thích. Những gì là 5. Đó là con mắt biết sắc, lỗ tai biết âm thanh, mũi biết hương, lưỡi biết vị và thân biết xúc”. Ta tập bớt nhìn, bớt nghe, bớt thấy, bớt nói năng hành động, bớt tham sân si, đêm ngày gìn giữ chánh nghiệp. Chỉ nhìn những điều làm cho mắt huệ phát sinh, nghe tiếng khổ đau của chúng sanh để phát khởi lòng từ bi mẫn, thấy chỉ để mà thấy không nắm giữ không thủ đắc. Ta bớt nói năng để giữ gìn chánh niệm, bớt chạy theo hương vị dỡ ngon, bớt đi phiền muộn để thảnh thơi, bớt thêm nữa những lo toan đau khổ, bớt nữa đi những tham sân si vô minh che lối, bớt nhiều giảm nhiều bỏ xuống buông xuống những lầm than cơ cực.
Thân xúc, những đụng chạm va chạm tương tác từ nơi các căn, do duyên với xúc nên có thọ, cảm thọ cảm giác những hưng động trỗi dậy phát khởi, do duyên với thọ nên có ái, tham ái, ái nhiễm những trạng thái của sự đắm mê say đắm thỏa mãn dục lạc. Tất cả đều phụ thuộc lệ thuộc vào những mức độ của những phát khởi đó dẫn dắt đưa ta rơi vào khổ đau. Có nhiều yếu tố nối kết khác nhau, các duyên hội tụ các căn trỗi dậy, trong đó có chủ thể khách thể, thân tâm trong ngoài. Hơn nữa trong mỗi chúng ta đều có sự nhận thức và cảm nhận riêng, những thỏa mãn truy cầu cá biệt, nên kết qủa chẳng ai giống ai. Sự truy cầu ước vọng thỏa mãn dính chặt rủ rê, lại là mầm mống của những khổ đau, căn nguyên của phiền não ràng buộc, tất cả đều tùy vào cách nhìn nhận và sự phát hiện cho từng vấn đề trong mỗi chúng ta.
Trong sự chừng mực, những yếu tố cấu thành dù ở trong hay ngoài, đến từ đâu thì là như vậy, nhưng ở nội tâm và sự tu tập thật sự thì lại có khác. Một khi chúng ta tách rời ra, cắt đứt các duyên, để nguyên vị giữ đúng chức năng, thì vấn đề sẽ khác, sẽ thay đổi cục diện hoàn toàn, sẽ không có hội tụ phát sinh đắm nhiễm, ngăn ngừa sự đi lại của các căn gây nên tội lỗi, tập khởi nổi dậy khổ đau hành hạ. Nhận biết rõ ràng ngăn ngừa phòng hộ chế ngự các căn, chuyển hóa nâng cấp, chuyên cần tỉnh giác, xả ly buông bỏ, đoạn trừ những bất thiện uế nhiễm, lìa xa những ác tâm xấu ác, chuyển hóa thân khẩu ý thiện lành cao đẹp. Gìn giữ các căn thanh tịnh không nhiễm ô bụi trần, thường xuyên kiềm chế kiểm soát sự đi lại gây hại của các căn, không chạy theo dục lạc tà hạnh, không sân hận si mê, chẳng tranh giành chiếm đoạt hơn thua phê phán ngộ nhận, không nắm giữ thủ đắc gây nặng nề thân tâm, mang lại niềm an lạc thảnh thơi đúng nghĩa, sự viên mãn hỷ lạc tròn đầy. Lúc đó mọi nguyên nhân mọi nguồn cơn, dù đến từ đâu đều loại trừ xóa bỏ, không còn ngăn ngại, tất cả hợp nhất trở thành một khối không gì phá vỡ lay chuyển. Được như vậy cuộc sống của ta thảnh thơi tươi đẹp biết dường nào, bình thản an nhiên như nước chảy mây bay, không vương vấn lụy phiền vướng bận, thênh thang rộng mở trên mọi lối đi về.
Ta ra công nhọc lòng ước ao niềm vui hạnh phúc đến, nhưng điều đó lại là những cuộc rượt đuổi trốn tìm, nỗi niềm tao ngộ chia ly nghiệt ngã. Bởi không có bàn tiệc hạnh phúc nào dọn sẵn cho ta mà không cần phải làm gì cả, chẳng có một điều kiện gì. Những gì không do mình nỗ lực hướng đến, không có sự quyết lòng thực hiện, mà do lẻ khác ban tặng đưa đến, nó vốn không bền vững, trước sau thì ta phải đánh đổi trả giá. Điều hiển nhiên hạnh phúc an lạc là phải kiếm tìm, nỗ lực thực hiện, chứ không phải ước ao gọi mời là nó tự động đến. Chỉ có phiền não khổ đau bất an bệnh tật vô thường là những thứ mà chúng ta không cầu không mong nó vẫn lù lù xuất hiện, tôn trọng sự thật chấp nhận sự thật là hạnh phúc không tự tìm đến ta, không có mặt từ những hy vọng chờ đợi tìm cầu ước mong, nỗi niềm lo lắng ngóng trông sẽ chẳng bao giờ khiến nó quay đầu ghé lại, càng trông đợi chờ mong chỉ khiến cho nó càng thêm mất hút.
Điều quan trọng,“Sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức”, điểm khởi và chung cuộc, hành trình và đích đến, nằm ở đâu xuất phát từ đâu, từ nơi vô minh tham sân si, phiền não khổ đau hay từ năng lượng tu tập của trí tuệ giải thoát mang lại? Ta chỉ có thể nhân chân ra được nguồn cơn là khi trong ta có được tuệ lực tinh tường, lúc ta nhận biết được chân lý nhiệm mầu soi tỏ, là dịp ta phá vỡ bóng tối dày đặc của vô minh bao phủ, là khi trí tuệ mở đường soi tỏ. Ta có đủ đầy quyết tâm loại trừ bất thiện xấu xa, ba độc tham sân si sai sử, được như vậy ta mới không bị đau khổ vây quanh hành hạ, ta mới có được sự an lành đúng nghĩa, cõi lòng tự tại an nhiên.
An lạc hạnh phúc thật sự là khi chúng ta biết tu tập tỉnh thức, chuyển hóa phiền não khổ đau, kham nhẫn những điều khó khăn, đoạn trừ những vướng bận khó bỏ, làm những điều khó làm. Nếu không có chướng duyên nghịch cảnh thì lấy gì nuôi dưỡng tâm nguyện vượt thoát, loại trừ những tật đố tham sân si, những tác tạo hành xử bất thiện? Nếu không vất vả gian nan bền lòng quyết chí thì làm sao đi đến đích, làm sao gột rửa thân tâm, hoàn thành sự nghiệp giác ngộ?
Tại sao hạnh phúc mà ta kiếm tìm mong đợi càng ngày nó càng vụt xa, tại sao phiền não khổ đau ta chẳng bao giờ trông đợi nó lại liên tục xuất hiện? Có muôn ngàn lý do để an lạc hạnh phúc ngoảnh mặt ra đi không hề trở lại, có vạn nguyên nhân khiến nó chẳng đoái hoài thăm viếng. Phần nhiều do chính ta tự đánh mất đi cơ hội, tự mình bày ra cuộc chơi rượt đuổi, tự mình làm khổ chính mình, tự mình nói cười tung hứng hả hê rồi tìm cách đuổi đi níu lại. Có phải, tại ta yêu cầu quá đáng đòi hỏi quá cao, không bằng lòng với tất cả dù đó cảnh duyên nghiệp quả, tạo ra vô vàn sức ép khiến cho thân tâm nhọc nhằn chán chường mỏi mệt? Ta không chịu an phận cam lòng một điều gì thứ gì, chỉ lo mải mê hướng vọng tìm cầu, lắc đầu từ chối trốn tránh chạy nhảy lăng xăng, không chịu mở rộng cõi lòng, chỉ biết nhận vào chứ không chịu cho ra, chấp chặt định kiến chủ quan, khó khăn và khổ não với cả chính mình. Với một tâm cảnh rối bời nhập nhằng lẫn lộn, mất phương lạc hướng như thế, với tật xấu thói hư đầy dẫy không chịu chuyển hóa như vậy, thì liệu đến bao giờ lúc nào ta mới có được một bình minh tươi đẹp, một hạnh phúc an lạc đúng nghĩa?
Ta không thể đứng từ phía đối tượng để nắm bắt suy nghĩ thước đo tầm nhìn, bởi trong tất cả suy nghĩ đều ngầm chứa điểm dị biệt và bất đồng, to hay nhỏ nhiều hay ít, đổi thay, bất ổn lúc nào cũng chờ chực xuất hiện. Từ khía cạnh của những giác quan trổi dậy hay mức độ dồi dào của cảm xúc, sự lớn mạnh của bản năng hay sự vượt thoát ra ngoài níu kéo. Cũng có thể từ nơi xúc cảm tưởng chừng bất chợt thoáng qua, đâu đó giữa hai bờ mộng thực một sự quyết định giành giật, phân vân lững lờ trôi trên từng biến động, chìm lặng trong hố sâu ngút ngàn tỉnh mê phong kín. Sự trỗi dậy tìm về lặng thinh đúng nghĩa, cuộc lên đường khai phá, bỗng chốc hóa hư vô mất dấu bặt tăm. Sự nhìn nhận và quan điểm có mang lại điều tích cực hay tiêu cực, thiện ác mức độ như thế nào tác hại ra làm sao, rất khó để kiểm soát nếu thụ động buông xuôi phó mặc, ta cần hướng đến những tiêu điểm tốt đẹp phá vỡ những ngăn ngại bế tắc là cả một tiến trình lịch nghiệm thường trực.
Trong Thánh Đạo Tám Ngành, (Bát Chánh Đạo) Tám con đường dẫn đến an lạc hạnh phúc đích thật, gồm có: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Ý nghĩa của Chánh mạng như sau:
“Này chư Hiền, thế nào là Chánh mạng? Này chư Hiền, ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này chư Hiền, như vậy gọi là Chánh mạng”.
Toàn Tập Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, tập 05 trang 553
Chánh mạng, là một lối sống phong cách sống thái độ sống chân chánh phù hợp với chánh pháp, nuôi dưỡng những giá trị cao đẹp, từ bỏ tà mạng những hành xử ý nghĩ bất thiện không thích hợp với chân lý. Sự nhận biết như thật về các pháp, thân tứ đại đều là hư huyễn “các uẩn hư hoại, thân thể hoại diệt”, chỉ có pháp thân, ứng thân, hóa thân mới vượt ra ngoài sự chi phối của thời gian, hiển lộ bản thể chân như giác ngộ. Đó là công hạnh cao quý, sự hiểu biết cảm thông nối kết là cả một quá trình tư duy đúng mức. Làm mới và làm thật đẹp nội tâm của mình, luôn thể hiện từ bi và trí tuệ tỉnh giác trong từng hành động, ngôn ngữ nói năng, suy nghĩ, phù hợp với bản thể như thật tánh tướng. Ở ý nghĩa khác chánh mạng được giải thích như sau:
“Này chư Hiền, thế nào là chánh mạng? Đó là khi vị Thánh đệ tử thấy rõ khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo;...hoặc với niệm không đắm trước, quán sát với thiện tâm để được giải thoát. Trong khi quán sát không mong cầu vô lý, không nên tham đắm nhiều mà không biết tri túc, không bị các loại chú thuật lôi cuốn biến thành đời sống tà mạng, chỉ theo chánh pháp để cầu y phục, không phải là phi pháp, theo chánh pháp cầu thực phẩm, giường chõng, không phải là phi pháp. Đó là chánh mạng”.
Chánh mạng, còn là tư duy quan điểm cách sống lối sống thích hợp và phù hợp với chân lý như thật của các pháp. Tất cả đều phải được thiết lập và xây dựng trên nền tảng của sự hiểu biết thấu đáo chân chánh, từ hành động cho đến nói năng suy nghĩ chân thật và thích nghi với chánh pháp. Tứ Diệu Đế, bốn chân lý vi diêu cao cả, là bài pháp đầu tiên và cũng là bài pháp sau cùng Đức Phật rao giảng, nhận chân khổ là khổ, nguyên nhân của khổ, con đường thoát khổ vượt khổ, chấm dứt khổ hết khổ. Con đường đó giải phóng chúng ta ra khỏi khổ đau, đưa ta về với không cùng vô tận, thường hằng giải thoát.
Sự tỉnh thức và nhận biết cao độ, vượt thoát khổ đau là ta phải thường nghiệm tuệ tri, như thật tánh tướng các pháp, vươn lên thoát ly với những gì đang hiện hữu, đang biến dạng. Dù cho thực tại đó có là gì chăng nữa, phũ phàng đến bao nhiêu, ngang trái khổ đau chừng nào, thì trước đó và trong đó vẫn là chuỗi dài liên kết nhân quả do ta tác tạo gây nên. Bây giờ là lúc ta phải trực diện, nhận lãnh chịu phần trách nhiệm, không một ai đấng tối cao quyền năng nào có thể thay thế và làm khác đi được. Chúng ta bình tâm tỉnh giác, nhận biết rõ ràng bản thể thật tướng của vạn pháp, vượt sông mê bể khổ về với chân tánh thường tại, bình thản an nhiên với vô thường biến động, được mất hơn thua những gì chưa có không có, những gì đang đến sẽ đến, những gì chưa đi sẽ đi, đều chẳng bận tâm lo lắng. Chỉ có chính ta mới đủ thẩm quyền chuyển hóa thay đổi, bằng lòng đối diện với tất cả hùng lực, không sợ hãi chạy trốn, chịu trách nhiệm với những gì do chính mình tác tạo, đó cũng là phương cách thoát ra rồi vậy.
Trong môi trường sống, từ hoàn cảnh cho đến tâm thức thường xuyên có sự tác động biến hiện đổi thay, nếu ta không vận hành đến năng lực tuệ giác thì khó mà nhận diện được bản chất đích thực của từng vấn đề. Một khi ta thiếu vắng sự tỉnh thức, không tự mình thể nghiệm chặng đường phá vỡ vựt dậy, không xúc tác đụng vào được vùng cấm của tri thức trôi nổi thì lại càng khó thoát ra, càng khó lìa bỏ, nhất là trong khi ta vẫn còn lẩn quẩn kiếm tìm chạy nhảy lăng xăng, mịt mùng trong những rượt đuổi nắm bắt chấp chặt. Nội tâm của ta và người khác chẳng sao giống được, suy nghĩ của ta và sự cảm nhận của kẻ khác không thể song hành. Bởi không có một sự vận hành nào giống nhau cho từng tâm thức, mỗi chúng ta đều có sự bun nhiễm huân tập nhân quả nghiệp lực khác nhau, trong ta chất chứa biết bao nhiễm ô bất thiện, nắm giữ biết bao ái dục trầm luân, ta cần phải vận dụng tất cả mọi thắng duyên nội tại chọc thủng màng đêm vô minh tăm tối, quật khai năng lực trí tuệ bừng dậy. Chúng ta phải chuyển hóa thân, khẩu, ý cho được thiện lành, phát huy nuôi lớn những giá trị cao đẹp, mở rộng cõi lòng để cho tuệ giác sáng soi, bỏ xuống mọi lụy phiền vướng bận, xả bỏ tham ái đoạn trừ si mê sân hận, hướng nguyện đến muôn loài chúng sanh với lòng bi mẫn biết ơn, đem niềm hạnh phúc nhỏ nhoi dâng hiến đến cho cuộc đời, nụ cười hoan hỷ lòng từ bi trao ra mới không bao giờ hư hao cạn kiệt. Một khi thấu hiểu rõ ràng nhận biết như thật, thì còn có gì để ta khổ đau đêm ngày lo lắng, bình thản và nhiên mới là ý đạo.
Cái không đẹp, không ý nghĩa chẳng thực tế, là lúc ta chối bỏ hiện tại để quay đầu tìm lại quá khứ, sống bất định trong hiện tại, hoang tưởng cho một tương lai, thường xuyên chạy theo cảm tính xô bồ, trong sự bon chen giành giật trôi nổi. Sống mãi với cái quá khứ tiếc thương, cũng đồng nghĩa giết chết đi tương lai, nhưng nếu ta đang sống với cái hiện tại nhưng lại không làm tốt ở ngay bây giờ, thì cái hiện tại này lại là những chuỗi ngày lê thê dật dờ vất vưởng, mong cầu cho mai sau, không khéo ngày mai trông đợi ấy sẽ trở nên mịt mùng xa thăm thẳm. Cảnh và người rượt đuổi tìm nhau, bỏ hình bắt bóng, một thứ trò chơi sinh tử trốn tìm trong cõi nhân sinh. Khi nào chạm vào được giây phút hiện tại, hằng sống với cái hiện thực, thì phút giây đó trở nên thuần khiết lắng đọng tuyệt vời. Ta sống trọn vẹn vào thời điểm nào thì cái sát na đó sẽ tươi đẹp an lành, ta bình an thật sự ở giai tầng nào thì cấp độ tinh tế đó đưa ta đến bến bờ an lạc, từ thời điểm đó ngay hiện tại đó.
Đừng truy cầu quá khứ kiếm tìm kiếm tương lai, chỉ cần sống tốt đẹp an lành với hiện tại bây giờ. Một khi ta tóm thâu được phút giây hiện tại, tuệ giác bừng dậy sáng soi, quán chiếu như thật với chánh trí tuệ “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Ta mới đủ năng lực hất tung cái này xô đẩy cái kia tống xuống tận cùng mọi thứ, đốt cháy mọi tham dục si mê nhân ngã bỉ thử, ngã pháp chấp chặt, đoạn trừ vô minh, vựt dậy chân như tánh giác. Đó là con đường hoàn thiện lý tưởng giải thoát tột cùng cao cả, chấm dứt khổ đau bất an đè nặng trên từng tâm thức. Một khi mức độ hiểu biết được nâng cao toàn diện, quán chiếu tinh tường tuệ giác soi tỏ, ta sẽ trông thấy một cách rõ ràng minh bạch những nguyên lý như thật, khi trải nghiệm khổ đau đủ đầy cung bậc, những tác động lớn lao mãnh liệt đó, sẽ giúp chúng ta quyết lòng tìm cho mình một sinh lộ, một lối thoát thật sự đúng nghĩa.
Con đường quyết tâm giải phóng khổ đau, là phải nhận diện đương đầu tìm phương vượt thoát, phá bỏ ngã và ngã sở, ngã chấp pháp chấp. Bao giờ và lúc nào ta mới thật sự buông xuống những khổ đau nhọc nhằn phiền muộn lo toan, loại bỏ vô minh tham sân si, quyết tâm rời xa những gì thuộc về bản ngã, những gì không phải của ta không thuộc về mình, chẳng bận lòng liên quan dính dáng đến. Nếu đã biết là không và chẳng có thứ gì mang theo được ngoài nghiệp quả, thì tại sao ta cứ mãi tìm cách ôm giữ cầm chặt cưu mang, gánh trọn trên đôi vai, đổ vào tâm thức những ô nhiễm bất tịnh hết lần này đến dịp nọ, trôi lăn mãi miết trong ba cõi sáu đường. Ở trong cõi vô thường huyễn mộng sắc không nhầy, thì có cái gì là của ta riêng ta thuộc về ta, cái đó không bị hư hao biến đổi tước đoạt? Chỉ khi chúng ta tinh cần tỉnh giác, tu tập đến nơi đến chốn, trí tuệ tinh tường sáng tỏ thì mới có được sự hỷ lạc tròn đầy viên mãn. Khi nào bỏ ngã bỏ nhân, bớt khổ hết khổ không khổ, hết lo hết sợ hết phiền não tham sân si, xả bỏ mọi nhu cầu tham đắm, thì hạnh phúc đích thực sự bình an tối thắng sẽ ngự trị.
Con đường dẫn đến an lạc hạnh phúc thật sự ló dạng là khi ta ý thức trọn vẹn về vô thường khổ đau, sống trong sự chi phối của vô thường, nhưng vẫn không để cho nó làm cho ta hề hấn, không để cho đau khổ phiền não hành hạ. Nhờ ta khéo léo biết nhận diện bản chất như thật tánh tướng của các pháp một cách rõ ràng minh bạch, sáng suốt tinh tường. Ta soi sáng vạn pháp bằng ánh sáng trí tuệ, bằng chánh pháp của đức Thế Tôn, bằng chân lý của đạo như thật, bằng sự quật khởi thâm chứng từ tâm đến cảnh từ trong ra ngoài. Có được như thế ta mới hết khổ hết lo hết phiền, tâm không vướng, lòng chẳng bận chân chẳng chùn bước, thảnh thơi thong dong trên vạn nẻo đăng trình, được như vậy thì có gì còn gì làm hề hấn trói buộc ngăn ngại được ta, tự tại an nhiên đến đi trong muôn lối.
Cúi đầu lạy tạ thâm ân chư Phật, thầy, tổ, đã cho chúng ta được sống an lành trong giới pháp cao cả, được nuôi dưỡng trong suối nguồn tuệ giác, để sự có mặt của chúng ta ở cuộc đời này mang đầy ý nghĩa, góp phần tăng thêm giá trị, đem lại lạc an cho mình cho người và chúng sanh.
“Tránh không làm điều ác. Không say sưa nghiện ngập. Tinh cần làm việc lành. Là phước đức lớn nhất”
Ý CĂN
ĐẦU MỐI CỦA THIỆN ÁC TỐT XẤU
NGUỒN CƠN CỦA ĐAU KHỔ AN VUI
Trong sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, thì Ý đứng sau cùng nằm chót bảng kẻ ở phía sau, nhưng lại đi trước dẫn đầu định đoạt quyết định mọi thứ mọi chuyện mọi việc. Từ sắc pháp tâm pháp, cảm giác cho đến cảm thọ, thiện ác tốt xấu, đau khổ an lạc, buồn vui lo lắng phiền não, tất cả trạng thái tâm sinh lý đều do ý chủ động sai khiến, bày mưu lập kế. Ý kết hợp phối hợp nhẹ nhàng nhanh gọn đến độ ta khó lòng phát hiện kiềm chế, nếu ta lơ đãng mất đi sự cảnh giác cao độ. Ý lập tức nhảy vào gây rối tung hỏa mù ra tuyệt chiêu, điều khiển dẫn dắt đưa ta đến những lầm lạc tai hại, đau khổ triền miên không lối thoát. Ý chạy nhảy lăn xăn, như con vượn chuyền cành như con ngựa chạy rông “tâm viên ý mã”, từ chổ này đến nơi khác, từ đông sang tây, ngồi ở đây mà tâm ý ở chỗ khác. “Nghĩ vơ nghĩ vẩn không lúc nào dừng” ý thường xuyên biến động nổi trôi gây nên muôn vàn nghiệp chướng. Sở dĩ sự xuất hiện của ý trở nên gọn gàng nhanh lẹ, là bởi trong ta vốn cất giữ tàng chứa chồng chất ba độc tham, sân, si vô minh tăm tối. Và đó cũng chính là lý do để ý dễ bề thao túng, lũng đoạn gây rối, tung hoành ngang dọc.
Tham, sân, si chính là nguồn căn đưa ta đến với khổ đau, dẫn ta đến lụy phiền bất an, khiến ta mãi miết trôi lăn trong triền phược, chìm đắm trong đêm dài tăm tối, mịt mùng mờ mịt không có lối ra. Lòng tham, sân hận, si mê khiến ta vẫy vùng trong biển khổ sông mê, làm cho ta rối ren quờ quạng bất an trong dòng đời, khiến ta mê muội dại khờ đau khổ trong cuộc sống. Chỉ một chút lòng tham nổi lên cũng khiến cho ta đánh đổi cả liêm sỉ lòng tự trọng, đánh mất nhân cách cùng những đức tính đạo đức cao đẹp, mải mê chạy theo lòng tham ham muốn hưởng thụ. Chỉ một giây sân hận trỗi dậy cũng đủ làm cho ta phá bỏ công đức lâu nay dày công gây dựng, nuôi dưỡng lòng sân si thù hận, khiến ta cả một đời dằn vặt đau khổ. Chỉ trong tích tắc si mê tăm tối, là đã làm cho ta mất phương lạc hướng, không biết đâu nẻo chánh đường tà, đi từ lầm lạc này đến lầm lỡ nọ, sống dỡ chết dỡ, chìm đắm trong mịt mùng tử sinh chưa có dịp thoát ra.
Vua Trần Thái Tông (1225-1258) một vị thiền sư cư sĩ vĩ đại sáng tác pháp Sám Hối Sáu Căn để tu tập và hành trì thiện pháp. Đây là một phương pháp nhằm phát hiện và nhận diện sự đi lại trôi nổi của các căn, để chúng ta nhận biết một cách minh bạch rõ ràng, thành tâm sám hối, nỗ lực giữ gìn để không tái phạm, phát khởi nuôi dưỡng thiện pháp, đem lại sự an lạc ngay trong cuộc sống.
Nghiệp căn Ý là:
Nghĩ vơ, nghĩ vẩn, không lúc nào dừng,
Mắc mưu tình trần, kẹt tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền,
Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sinh
Não loạn tâm thần, đều do ba độc.
a. Tội keo tham là:
Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ,
Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ.
Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy,
Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy.
Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét,
Lụa là chất đống, nào có giúp ai,
Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều,
Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn.
Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai,
Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí.
Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo,
Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.
b. Tội nóng giận là:
Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu,
Quắc mắt quát to, tiêu tan hòa khí.
Không riêng người tục, cả đến thầy tu,
Kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích.
Chê cả sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha,
Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy.
Buông lời hại vật, cất tiếng hại người,
Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm.
Bàn thiền tợ Thánh, trước cảnh như ngu,
Dầu ở cửa Không, chưa thành vô ngã.
Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây,
Những tội trên đây, đều do nghiệp giận.
c. Tội ngu si là:
Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm,
Chẳng hiểu tôn ty, không phân thiện ác.
Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay,
Mắng Phật chuốc ương, phun Trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân,
Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp.
Những tội như thế, rất nặng rất sâu,
Đến lúc mạng chung, rơi vào địa ngục.
Trải trăm ngàn kiếp, mới được thọ sanh,
Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo.
Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài, thành tâm sám hối .
Đệ tử chúng con chí tâm phát nguyện:
Một nguyện nguồn linh, luôn luôn trong sạch.
Hai nguyện tạng thức, dứt bặt lăng xăng.
Ba nguyện khối nghi, đều tan nát hết.
Bốn nguyện trăng định, mãi mãi tròn đầy.
Năm nguyện pháp trần, không khởi không diệt.
Sáu nguyện lưới ái, lìa hết buộc ràng.
Bảy nguyện suy nghĩ, thường hành Thập địa.
Tám nguyện nghe suốt, siêu việt tam thiên.
Chín nguyện tâm vượn, không còn nhảy nhót.
Mười nguyện ý ngựa, dứt sạch cương yên.
Nguyện thứ mười một, mở lòng nghe Phật.
Và nguyện mười hai, mến thích Tổ sư.
Sám Hối Sáu Căn, Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch
Trong cuộc sống, chúng ta thường xuyên đối diện, có sự gặp gỡ tiếp xúc chung đụng với mọi thứ chung quanh, từ cá nhân xã hội đến gia đình, từ người quen cho đến kẻ lạ, mọi thứ mọi việc đều có sự kết nối tương tác. Những mối tương quan đó cần có sự tương hợp tương thích, ta không thể một mình đơn độc, chỉ sống cho một mình chỉ biết có mình mà thôi, ta không thể không giao tiếp để mưu sinh sống còn, ta lại càng không thể cô lập phong bế để tự tồn tại, ta càng không thể gạt bỏ mọi cảnh duyên dễ dàng được. Sự có mặt của chúng ta ở cuộc đời này đã là nghiệp chung, có những liên hệ ít nhiều từ tâm đến cảnh, môi trường cuộc sống, mỗi người mỗi cảnh không ai giống ai, đều có sự khác nhau sai biệt ít nhiều. Nhưng có những thứ những điều lúc nào và bao giờ cũng giống nhau, đó là niềm đau nỗi khổ, buồn phiền, nóng giận, ngậm đắng nuốt cay, niềm đau không tên gọi, nỗi khổ không bến bờ, chỉ khác ở mức độ cường độ cấp độ mà thôi. Nước mắt vẫn cùng một vị mặn, chỉ là lúc nào và bao giờ những giọt mặn ấy nhỏ xuống và nhỏ bao nhiêu bao lâu ngắn dài. Đến chừng nào mới ngừng lại, hoặc có còn chảy xuống tiếp tục hay lại chảy vào bên trong, tích chứa ở trong ấy. Phật dạy, nước mắt nhiều đời nhiều kiếp cọng lại còn nhiều hơn nước đại dương.
Thái độ tâm cảnh sống của ta, cách hành xử ngôn ngữ nói năng, suy nghĩ của ta mới là vấn đề, mới là chính yếu mới là quan trọng. Chúng ta sống như thế nào và sống làm sao, để không đau khổ buồn phiền, để không si mê tăm tối, để không lạc bước lầm đường, để không ân hận tiếc nuối. Để cho, tâm ta ý ta lòng ta, cuộc sống cuộc đời ta, lúc nào cũng an lạc thảnh thơi, lúc nào cũng hoan hỷ mỉm cười, lúc nào cũng ban vui cứu khổ lợi mình lợi người.
Để bước qua vượt lên thoát ra sống còn, ta cần thực tập cách sống, nghệ thuật sống, nhân cách sống. Sống có đạo đức, có phẩm giá, sống cao đẹp, sống có giá trị, sống sao đem lại ít lợi thiết thực cho bản thân gia đình và xã hội. Ta cần rời xa những yếu tố góp phần tạo nên những hậu quả bất thiện không tốt, để cuộc sống của ta luôn được mỹ mãn lạc an, để cho sự sống của ta vẹn toàn và có ý nghĩa. Chúng ta cần phải loại trừ chấm dứt lòng tham lam keo kiệt ham muốn, chúng ta quyết tâm từ bỏ tâm sân hận nóng nảy, chúng ta bền ý đoạn trừ ngu si mê mờ tăm tối.
1. Tham lam keo kiệt, sự ham muốn, ham thích, thích thú, đam mê, ta có thể tạm chia lòng tham ra làm hai dạng tốt xấu, thiện ác. Về xấu bất thiện, thì lòng tham che mờ tất cả, khiến cho ta không phân biệt được đúng sai, phải quấy, không nhận chân ra được đâu là chánh tà, ngay thẳng, không hiểu rõ được những vấn đề nguy hại. Tham lam keo kiệt, ích kỷ, bòn rút tích cóp của người, ham tiền thích bạc, ham địa vị danh vọng, giàu sang quyền thế, ham muốn tích lũy nắm giữ ôm vào chứ không chịu cho ra. Tham ái trói buộc, tham sống sợ chết, ham ăn thích uống, ham ăn món ngon vật lạ, thích giết hại sinh vật, đam mê rượu chè cờ bạc trai gái, thích khen chê phê phán luận bàn bình phẩm, thích phá phách nổi loạn, gây thù chuốc oán, thích chọc giận phá thiên hạ, thích được ca tụng khen ngợi, đam mê dục vọng lòng tham dục, ham thích bồi bổ o bế tấm thân vỗ về bản ngã, thích làm những ác hạnh về thân, khẩu, ý.
Người có lòng tham tốt thiện lành, thì sự ham muốn, ham thích, đam mê, thích thú, thường xuyên hướng về nẻo thiện đường ngay. Thích làm việc lành, ham thích làm việc thiện, thích giúp đỡ người nghèo khổ, thích mang lại niềm vui tiếng cười cho kẻ khác, thích làm thiện bỏ ác, thích làm việc nhân nghĩa, ham thích tu tập, thích đi chùa nghe pháp tụng kinh, thích ăn chay niệm Phật, thích tạo thiện nghiệp, ham muốn gieo nhân thiện để gặt quả lành, thích nghe giảng pháp tụng kinh, ham tích chứa điều tốt việc thiện, ham thích được sống trong giáo pháp chánh pháp của Đức Thế Tôn, nguyện làm những thiện hạnh về thân, về khẩu, làm những hạnh lành về ý.
Ở mặt khác, che chắn kỷ hơn tinh vi hơn, nhiều khi lòng tham còn trá hình, núp bóng, đội lốt, giả nhân giả nghĩa, giả danh tu sĩ, lạm dụng tôn giáo, giả tật bệnh, giả làm việc thiện để lừa dối trục lợi, lợi dụng lòng thương người việt tốt của kẻ khác. Đây gọi là, thiện trong hành động nhưng trong bản chất lại là bất thiện, thiện ở bên ngoài nhưng bên trong chưa hẳn là thiện, ngoài thiện nhưng trong lại là ác, hành động thiện nhưng suy nghĩ bất thiện, mới nhìn thoáng qua thì là thiện nhưng trong sâu thẳm lại là bất thiện.
Điều quan trọng lòng tham đó, điểm khởi xuất phát từ đâu mang lại, từ đâu đến đâu, nội tâm ngoại giới, từ chìm khuất ở bên trong đến thể hiện ra bên ngoài, từ tâm đến cảnh, từ hành động đến suy nghĩ, từ bản chất đến tác tạo. Tất cả điều đó đều được biểu hiện và thể hiện một cách trong sáng rõ ràng thanh tịnh từ nơi thân, khẩu, ý. Hành động, nói năng, suy nghĩ luôn hướng đến mục đích thiện lành cao cả. Phải là sự toàn thiện, thiện pháp, pháp lành cho tất cả, như thế lòng tham để được sống trong chánh pháp sống đúng với chánh pháp mới mang lại niềm vui sự an lạc viên mãn đích thật.
Để đối trị lòng tham ham muốn, tâm từ bi và hỷ xả, là những công hạnh vô cùng cao đẹp. Trong các hạnh lành thì từ bi đứng đầu, tâm hạnh từ bi rộng lớn bao la không có bến bờ ngần mé, không có giới hạn biên cương, cao cả không gì sánh kịp, một lòng cứu độ chúng sanh không một phút giây ngừng nghỉ. Mọi việc mọi sự nếu lấy từ bi làm đầu, thực hành hạnh từ bi, nuôi dưỡng tâm từ bi thường xuyên lớn mạnh, sẽ đem lại cho chúng ta sự an lạc vô biên. Hỷ xả, chữ xả là bỏ xuống, buông xuống, bỏ đi, quăng bỏ, liệng đi, vứt bỏ, thả ra không níu chẳng kéo, không tiếc nuối vấn vương. Buông xuống những nhọc nhằn phiền muộn lo toan, bỏ đi những khổ đau vướng bận, cũng có thể vì sợ khổ nên ta buông vì sợ đau nên ta bỏ.
Chữ Hỷ khó thực hiện hơn và không hề dễ dàng, đòi hỏi nội tâm của chúng ta phải thật sự có sự hoan hỷ vui vẻ, bằng lòng mỉm cười hoàn toàn không hề có sự tiếc nuối, không khởi lên bất cứ sự lợn cợn đắn đo do dự, dù vi tế nhỏ nhoi. Phải là hoan hỷ vui mừng một cách tuyệt đối và hoàn toàn tuyệt đối. Cách cho cách tặng đã là quan trọng, nhưng cái tâm hoan hỷ để cho để tặng lại càng quan trọng hơn, tặng tài vật cho người đã là tốt đẹp trân trọng, nhưng trao cả tấm lòng lại càng đáng quý trọng hơn. Đòi hỏi chúng ta có sự quyết tâm cao độ, bền lòng quyết chí, lòng từ mẫn vô biên, cõi lòng hỷ xả nhẹ tênh rộng mở.
Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân
“Điều thứ hai giác ngộ rằng, càng lắm ham muốn thì lại càng nhiều khổ đau, rằng bao nhiêu cực nhọc trong cõi sanh tử đều do ham muốn mà có. Trong khi đó người ít ham muốn thì không bị hoàn cảnh sai sử, lại cảm thấy thân mình và tâm mình được thư thái”.
“Điều thứ ba giác ngộ rằng, vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi không bao giờ biết chán cho nên tội lỗi ta cũng theo đó mà càng ngày càng lớn. Các bậc Bồ Tát thì khác hẳn: họ luôn nhớ nghĩ đến phép tri túc, an vui sống với đời đạm bạc để hành đạo và xem sự nghiệp duy nhất của mình là sự thực hiện trí tuệ giác ngộ”.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
2. Sân si nóng giận, một khi khởi lên sân hận sân si nóng nảy hung dữ, cho dù núp bóng kiểu gì cách gì, ở trong hay ở ngoài mức độ ra sao chăng nữa, thì đây là sự thiếu kiềm chế và tu dưỡng chưa được tốt. Trong ba độc, sân si tương đối dễ nhận diện hơn, do nó bộc lộ ra bên ngoài, xuyên qua hành động, ngôn ngữ nói năng, những biểu hiện ở bên ngoài. Khi sân si nổi dậy làm cho ta đảo điên tâm thần không còn bình tỉnh mất đi sự cảnh giác, khi nóng giận nổi lên khiến ta không biết kiềm chế tự chủ. Tha hồ nguyền rủa chửi bới, quậy phá lung tung, đánh nhau đâm chém, văng tục chửi bậy, phá làng quậy xóm. Tự mình đánh mất nhân cách và lòng tự trọng, lại còn gây họa chuốc phiền rước khổ vào thân vào gia đình con cái, khiến cho kẻ khác chê cười, xầm xì bàn tán to nhỏ, nói ra nói vào coi thường khinh miệt. Cũng chỉ vì họ dám đụng đến chọc đến cái bản ngã to đùng của ta, xem thường không coi trọng không xem ta có ký lô nào cả, giành giật miếng ăn của ta, đụng đến tài sản tiền bạc của cải của ta, chọc phá người thân của ta. Nên ta sân hận nóng nảy trả thù trả vốn, dù ta viện dẫn mọi lý do đưa ra mọi lý lẽ, rốt cuộc cũng chỉ thỏa mãn tâm tánh xấu ác, bản năng bất thiện sân tâm chế ngự kiềm tỏa ta mà thôi. Nó vốn tích chứa trong ta từ trước, mỗi ngày một ít, chầy ngày chầy tháng, đến khi không kiểm soát được, tức nước vỡ bờ, giọt nước tràn ly, chịu đựng hết nổi, nó mới phát tiết ra ngoài. Chỉ trong một tích tắt sân si khởi lên, nhưng mức độ tàn phá và những tác hại của nó sẽ ảnh hưởng lâu dài, bào mòn tâm lực thiêu đốt ý chí, tàn phá biết bao công đức tích góp từ trước của ta. Bởi trong ta thiếu sự tha thứ, lòng từ bi chưa đủ lớn mạnh, tu tập chưa đi đến đâu.
Những biểu hiện ở bên ngoài thì là như vậy, nhưng nếu sự nóng giận cất chứa chôn dấu ở bên trong thì còn khủng khiếp hơn, nó nung nấu đốt cháy ta từng giờ từng phút, năm này qua tháng nọ, nó âm ỉ cháy thấu tận tim gan xương tủy. “Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây”, nhiều khi nó cuồn cuộn dậy sóng, muốn la hét vỡ tung, muốn lật tung phá sập, muốn dời sông lấp biển, muốn đánh muốn giết, chửi bới nguyền rủa nói cho sướng miệng đã tai. Nhưng tạm thời ta kiềm chế lại được, gắng nuốt tức giận nóng nảy hung dữ vào trong, không cho nó phát tiết ra bên ngoài, không cho nó bộc lộ để kẻ khác hay biết. Lòng sân hận đó kéo dài ra, kéo dài thời gian thêm nữa, thâm hơn hiểm hơn, để đó chờ đó đợi đó, ngày mai sẽ tính sổ, ngày mốt tính chẵn luôn, mai kia mốt nọ rồi cũng phải trả, “mười năm trả thù chưa muộn”, trù ẻo nguyền rủa sân hận truyền kiếp từ đời này sang đời nọ, “đời cha ăn mặn đời con khát nước” con cái dòng họ nó sẽ trả, kiếp này không trả kiếp sau cũng trả, lẩm bẩm cả ngày lẫn đêm. Sự nóng giận sân si đó đẩy ta từ cõi người bước sang sống trong đọa xứ nóng giận của A Tu La. Hiện tại đã là như vậy thì mai sau cũng sẽ như thế, không thể khác hơn được, nếu trong ta không biết tu tập chuyển hóa đổi thay.
Để đối trị lại với tánh sân si nóng nảy hung dữ, đó là lòng kham nhẫn, nhẫn nại, nhẫn nhịn, biết tha thứ. Nhẫn còn là một đức tính cao quý, trong ta nhờ có sự tu dưỡng rèn luyện nội tâm, không để cho những tánh xấu bộc phát. Có sự tỉnh thức trong mọi tình huống, tâm cảnh, có sự cảnh giác cao độ những bất thiện phát sinh, có tấm lòng từ bi bao dung độ lượng, có cõi lòng tha thứ bỏ qua chẳng bận tâm. Khi chúng ta thực tập tu tập theo hạnh nhẫn, thường xuyên có sự tỉnh thức, sân hận nóng nảy khó có dịp phát khởi, một người tu tập tốt biết chế ngự biết kiểm soát, sân hận nóng nảy sẽ không có cơ may tồn tại, không có chỗ để dung thân, không có nơi nương tựa.
Chữ nhẫn còn đáng giá liên thành mang lại hạnh phúc an ổn cho cá nhân gia đình xã hội, khi đeo nhẫn mang theo chiếc nhẫn, nó luôn nhắc nhở chúng ta phải luôn nhẫn nhịn. Khi làm làm lễ cưới hỏi cô dâu chú rể cũng đều đeo nhẫn, hẳn phải có lý do ông bà ta mới đặt tên là nhẫn như thế, và như thế nên mới có câu “một điều nhịn chín điều lành”. Phải chăng ông bà đều muốn con cháu phải biết nhẫn, học hạnh nhẫn, thực tập nhẫn thường xuyên, nếu không nhẫn nhịn, vợ chồng gây gỗ không ai chịu nhường ai thì hậu quả sẽ như thế nào, không tương kính tôn trọng lẫn nhau thì sẽ ra sao? Nhẫn chịu nhẫn nhục không phải là sự hèn yếu nhu nhược, không cam chịu cam lòng không phải dung dưỡng cho cái ác bất thiện, không phản kháng, không đáp ứng lập tức, không có nghĩa cúi đầu khuất phục. Chẳng qua chỉ vì lòng hiểu biết, bao dung độ lượng, biết tha thứ bỏ qua những phiền toái không cần thiết, đó là một công hạnh cao quý, tâm lượng hải hà. Nếu chúng ta suy nghĩ một cách tích cực hơn, còn có yếu tố nhân quả, sự trả đi nhận lại ta vốn gieo trồng từ trước. Chỉ có trả nợ mới hết nợ, trả nghiệp mới dứt nghiệp, chạy trốn không phải là giải pháp, ta bằng lòng chấp nhận gánh chịu.
Một người làm chủ được lòng sân hận nóng nảy, thường rất từ tốn trang nghiêm lòng từ bi hoan hỷ toát ra khiến ta quý mến ưa thích, người biết nhẫn nhịn còn là tấm gương cao quý để ta noi theo nhắc nhở chính mình.
3. Ngu si tăm tối, là không sáng suốt, si mê mờ mịt, căn tánh chậm lụt, không nhận ra được chân lý, khổ não, không biết đâu là bờ mê bến giác. Sống trong sự trôi nỗi biến động, mê lộ mịt mùng của tâm ý. “Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm” không phòng hộ gìn giữ các căn, cứ để rông chơi chạy theo trần cảnh. Tích chứa nhiễm ô bun nhiễm tập khí bất thiện, thâm căn cố đế lâu ngày chầy tháng, nhập nhằng lẫn lộn, không phân thiện ác lẽ phải đường ngay. Vô minh che mờ tối tăm bao phủ, không mở lối khai minh, không có trí tuệ dẫn dắt, cứ thế đêm ngày lặn hụp trong biển khổ mênh mông.
Chúng ta cần phải thường xuyên duy trì sự tỉnh thức, sự lắng đọng thuần khiết ở trong tâm, thì ta mới thông suốt tường tận bản thể của từng hiện hữu, không để cho tham sân si xen vào gây rối, không một kẻ hở để những biến động ức chế ru ngủ, không để cho si mê tăm tối lũng đoạn, não phiền có cơ may tác động gây khủng hoảng rối ren. Một khi ta bỏ bê, cứ để mặc cho dòng tâm thức đi hoang rong chơi thỏa thích không biết lối về. Ta lại không tìm cách kiểm soát, không chịu kiểm soát theo dõi, cứ để nó lang thang lạc lối bờ mê chốn mộng. Như thế là ta trao cho nó cái quyền được làm chủ được sai khiến ta, lôi ta kéo ta đẩy ta mãi nói mãi chìm mãi lận đận mãi trôi lăn, trong sanh tử luân hồi không lối thoát không có ngày dứt ra. Đàng trước mịt mùng muôn vạn nẻo, đàng sau xa thăm thẳm không thấy đâu là bến bờ. Ta về đâu giữa dòng đời thác loạn, về đâu khi tâm thức cứ mải miết nổi trôi, nghiệt ngã khổ đau phủ kín lối về?
Chỉ có tu tập Chánh định và trí tuệ, mới đưa ta thoát khỏi si mê tăm tối, chuyển mê khai ngộ. Chỉ khi định tuệ sâu dày mới phá bỏ màn đêm u ám, để ánh sáng tuyệt luân của giác ngộ thường hằng tỏa chiếu. Chỉ khi định lực đủ đầy trí tuệ bừng lên, mới nhận chân ra được bản thể như thật của các pháp. Minh tâm kiến tánh, đoạn trừ si mê lầm lạc bao phủ, tuệ giác bừng dậy soi sáng nẻo vô minh.
“Này chư Hiền, thế nào là Chánh định? Này chư Hiền, ở đây, Tỷ Kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. (Vị Tỷ kheo ấy) diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. (Tỷ kheo) ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. (Tỷ kheo ấy) xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này chư Hiền, như vậy gọi là Chánh định”.
Toàn Tập Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, tập 05 trang 554-555
Chỉ có chấm dứt rời xa từ bỏ những tham dục, xấu ác, bất thiện hướng tâm vào thiền định phát khởi tuệ giác an trú trong cảnh giới tròn đầy của hỷ lạc. Bốn cảnh giới thiền định của bậc Thánh, siêu thoát cao tột, xả lạc, xả khổ, từ bỏ tất cả, đến chỗ không còn gì không có gì, không hoàn không, sự lắng đọng trùng khắp, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, đưa đến sự chứng đạt định tuệ vô thượng viên mãn.
Trong Kinh Trung Bộ, bài kinh số 152 Kinh căn tu tập, Đức Phật thuyết giảng “vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh” phòng hộ các căn, các căn được tu tập.
Này Ananda, thế nào là Vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh?
“Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo, ý nhận thức các pháp khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý và bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: "Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên nơi ta, khả ý và bất khả ý này khởi lên nơi ta. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả". Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người cho nhỏ hai ba giọt nước trong một cái chậu bằng sắt đun nóng mỗi ngày, này Ananda, các giọt nước rơi rất chậm nhưng chúng bị tiêu diệt, biến đi rất mau, cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các pháp do ý nhận thức.
Như vậy, này Ananda, là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh”.
Và này Ananda, thế nào là bậc Thánh các căn được tu tập?
“Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng..., mũi ngửi hương..., lưỡi nếm vị..., thân cảm xúc..., ý nhận thức pháp, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý và bất khả ý. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng ta an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm ly", thời ở đây, vị ấy sống an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly và (sự vật) yếm ly", thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: "Mong rằng, tôi sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm ly, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác", thời ở đây, vị ấy an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
Như vậy, này Ananda, là bậc Thánh, các căn được tu tập
Toàn tập Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, tập 05 trang 649, 650
Khi ý nhận thức các pháp, khi sáu căn trần thức gặp nhau thì sẽ có sự tương tác khởi động vận hành sinh khởi. Sự hưng động trỗi dậy nào đến từ ý đều ngầm chứa những biến động dị biệt đi theo lối mòn của những tư duy định kiến vốn huân tập từ trước. Nhận thức về những cảm nhận, về những khởi dậy đều nằm trong sự phong tỏa của những xúc giác cảm thọ, sắc pháp tâm pháp, những cảm nhận sinh khởi đó nằm ở dạng thô tế hay vi diệu, hữu vi hay vô vi, vừa ý khả ý, bất khả ý không vừa ý, và có sự trộn lẫn có vừa ý và không có vừa ý. Khi có sự nhận biết cao độ, thông tuệ hiểu rõ tường tận nguồn cơn, tuệ tri các pháp như thật tánh tướng, thì sự có mặt hữu vi mặt nổi bề nổi của thô dễ nhận diện và phát hiện hơn. Dù cho trạng thái tâm sinh lý có là thô hay vi tế, vừa ý hay không hoặc là cả hai chăng nữa thì phải cần xử dụng đến ngọn đao của chánh trí tuệ chặt bỏ trừ khử đoạn diệt. Chỉ có sự nhàm chán, ly tham, từ bỏ xả bỏ buông bỏ an tịnh thật sự và hoàn toàn mới trở nên vi diệu và thù thắng.
Khi các căn tiếp xúc với trần sẽ sinh thức, khi “mắt nhìn sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức pháp. Nhanh chóng và ngay lập tức sự phân biệt so sánh đắm nhiễm ham thích của thức sinh khởi phát sinh trú ngụ. Thông thường chúng ta không để cho các căn ở yên vị và làm tròn chức năng của chính nó, mắt không đơn thuần chỉ nhìn thấy sắc rồi thôi, cái thấy đó có bóng dáng của ý thức trỗi dậy, thấy cái gì điều gì và ra làm sao. Mắt nhìn thấy sắc, tướng trạng hình dáng, bên ngoài, mắt sẽ không dừng lại ở chỗ thấy rồi thôi, lúc này là dịp ngàn năm một thuở để ý thức nhảy vào gây rối lũng đoạn, thấy ra làm sao đẹp xấu ưa thích đắm nhiễm như thế nào mới là vấn đề. Một dấu hỏi to lớn và câu trả lời cũng trở nên gay cấn và lớn lao vô cùng. Tai nghe âm thanh nghe tiếng đã đành, nhưng nghe tiếng gì nghe làm sao, là dịp anh ý thức thống lãnh chủ sự, nghe âm thanh du dương nghe lời mật ngọt dụ dỗ, âm thanh cuồng nộ, nghe tiếng nhỏ nhẹ dịu êm lời ca mùi mẫn, nghe tiếng thở dài nỗi buồn u uất. Mũi ngửi hương ngửi mùi, nhưng cái chính là hít thở, thở vào thở ra, chúng ta lại quên đi cái chức năng vô cùng quan trọng đó, đến khi không thở, ngưng thở khó thở lúc đó mới là việc lớn trọng đại. Đến khi nào ta biết tuệ tri quán chiếu, hơi thở là sự sống là pháp tu gìn giữ chánh niệm, hơi thở là sự tỉnh thức an lạc diệu kỳ. Phần nhiều ta chỉ chú trọng đến việc mũi ngửi mùi, anh ý lúc nào và bao giờ cũng có mặt nhảy vào nổi loạn quậy phá phân biệt, những gì thơm tho quyến rũ làm say đắm lòng người, mùi hương của thân thể lụa là phấn son, mùi thơm của nước hoa nhan sắc tỏa ra khiến ta mê mẩn tâm thần. Ngược lại những gì hôi thối nồng nặc khó ưa khó chịu khó ngửi, ta bịt mũi lắc đầu xua đuổi chê bai chạy trốn. Lưỡi nếm vị, dịp may cho anh ý đến thăm ngỏ lời to nhỏ rủ rê, phân biệt nào ngon nào dỡ, kích thích lòng tham ham ăn món ngon vật lạ, kiếm tìm chạy rông bồi bổ tấm thân nuôi lớn bản ngã cho tốt tướng đẹp ra, đón nhận lời khen tiếng vỗ tay tán thưởng. Thân xúc, những đụng chạm va chạm, cảm giác cảm thọ, anh ý thức nổi lên trỗi dậy sai khiến lừa dối mê hoặc đắm nhiễm, nào là thô cứng mềm mại, ưa thích đẹp xấu, buồn vui sướng khổ, dễ mến ưa nhìn. Ý nhận thức pháp, sắc pháp tâm pháp, tất cả mọi hiện tượng sự vật, biểu hiện của hình thể tướng trạng, tâm cảnh cảnh duyên, ý thức khởi lên nhận thức so sánh phân biệt. Dù đến từ đâu ở đâu, tầm nhìn góc độ nào chăng nữa, tình huống và tâm trạng, vừa ý không vừa ý hoặc cả hai vừa có vừa không, tình huống tâm trạng, phải có sự ý thức cao độ về vô thường sanh diệt biến hoại, quyết lòng nỗ lực để đạt sự chứng ngộ lạc an, đều phải có sự nhàm chán, rời xa tham đắm, đoạn trừ, chế ngự các căn.
Khi đối diện với năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) sắc pháp tâm pháp, trần cảnh tâm cảnh, nội giới ngoại giới, những gì thuộc về phần thô mặt nổi, chúng ta dễ nhận diện quan sát, dễ phát hiện mặt mũi. Dù vậy để có sự nhận biết chận đứng lìa xa từ bỏ là cả vấn đề, trong ta phải thường xuyên có sự tỉnh thức, có chánh niệm, có tuệ tri. Những khởi động trỗi dậy vận hành đi lại phát sinh đến từ năm uẩn, tất cả đều là vô thường biến hoại diệt vong, chúng ta cần phải nhàm chán, ly tham, yểm ly, lìa bỏ rời xa lập tức tức thì, đoạn trừ xóa bỏ chấm dứt tất cả. Để tuệ giác trỗi dậy an trú, lối vào giác ngộ thênh thang rộng mở lạc an trú ngụ.
“Sống tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được niết bàn
Là phước đức lớn nhất”.
“Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên
Là phước đức lớn nhất”.
Kinh Phước Đức, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch, langmai.org
Có hai pháp tu để chứng đạt an ổn, lìa xa các khổ ách, đó là có nhiệt tâm và có biết sợ. Nhiệt tâm, là sự cần mẫn, tinh cần tinh chuyên, sự quyết tâm cao độ phải hoàn thành, phải thực hiện cho được trọn vẹn đủ đầy. Bằng mọi giá và bằng tất cả, nỗ lực hết lòng tu tập thiện pháp, quyết không để gián đoạn ngăn ngại. Có nhiệt tâm, lòng nhiệt huyết mới hoàn thành sứ mệnh giải thoát cao cả. Biết sợ, để tránh xa, đoạn trừ, buông bỏ, xả ly, sợ phải luân hồi sanh tử, sợ ngu si tăm tối, sợ vô minh dẫn dắt, tham ái trói buộc, sợ sân hận si mê, sợ phiền não khổ đau đeo cứng bám chặt. Có biết sợ, mới đủ năng lực hoàn thành sự nghiệp giác ngộ vô thượng.
Trong cuộc gặp gỡ trao đổi với Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, bậc tu hạnh đầu đà đệ nhất, Tôn giả Xá Lợi Phất, bậc trí tuệ đệ nhất, đề cập đến nhiệt tâm và biết sợ như sau:
“Và này Hiền giả, thế nào là nhiệt tâm?
Ở đây này Hiền giả, vị Tỷ Kheo suy nghĩ: “Các ác, bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi” vị ấy khởi nhiệt tâm. “Các ác, bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi”, vị ấy khởi nhiệt tâm. “Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng không khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi”, vị ấy khởi nhiệt tâm. “Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi”, vị ấy khởi nhiệt tâm.
Như vậy, này Hiền giả, là có nhiệt tâm”.
“Và này Hiền giả, như thế nào là có biết sợ?
Ở đây này Hiền giả, vị Tỷ Kheo suy nghĩ: “Các ác, bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi” vị ấy có biết sợ. “Các ác, bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi”, vị ấy có biết sợ. “Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng không khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi”, vị ấy có biết sợ. “Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi”, vị ấy có biết sợ.
Như vậy, này Hiền giả, là có biết sợ”.
“Như vậy, này Hiền giả, là có nhiệt tâm, có biết sợ có thể có giác ngộ, có thể có Niết Bàn, có thể có chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ ách”.
Toàn Tập Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ, tập 7 trang 328-329
Khi bất thiện pháp, cái ác điều xấu khởi lên, chúng ta cần phải có sự nhiệt tâm lòng nhiệt thành để đoạn diệt tiêu trừ ngăn chặn không để cho nó phát khởi, không để cho nó có dịp gây nguy hại, không để cho nó lôi kéo dẫn dắt. Cả hai khía cạnh thiện và bất thiện, tốt xấu, bất lợi, đều đòi hỏi chúng ta phải có sự nhiệt tâm nhiệt thành, để phát hiện ngăn ngừa điều xấu cái ác, không chó nó sinh khởi, không để nó xâm chiếm trú ngụ, cần phải chặn đứng và đoạn trừ. Nhiệt tâm tu tập thiện pháp, phát huy tăng trưởng hạnh lành, liên tục phát huy nuôi dưỡng tánh thiện tâm lành cao đẹp, thường xuyên gìn giữ duy trì thiện pháp, quyết không để hư hao mai một, biến hoại đoạn diệt. Nhiệt tâm lòng nhiệt thành, là những lực đẩy, sức mạnh cao tột, năng lực thiện xảo hội tụ, đưa ta hoàn thành đạo nghiệp giác ngộ, đạt được sự an lạc tròn đầy viên mãn.
Biết sợ, lòng biết sợ giúp ích cho ta rất nhiều, sợ điều ác việc xấu khởi lên đưa đến bất lợi gây nguy hại, sợ phải sinh tử luân hồi, sợ nhân quả nghiệp báo. “Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ quả” sợ trôi nổi lầm than đau khổ, sợ vô thường cướp đoạt tử sinh ly biệt, có nhiều thứ nhiều điều nhiều việc để lo để sợ. Biết sợ bất thiện pháp khởi lên mà không phát hiện kịp thời để ngăn ngừa đoạn diệt, sợ cái xấu điều ác trỗi dậy gây phiền nhiễu lũng đoạn. Có biết sợ khi thiện pháp khởi lên nhưng không gìn giữ duy trì để chúng hư hao biến mất, khi điều tốt việc lành xuất hiện nếu không nuôi dưỡng phát huy sẽ vô cùng bất lợi, không giúp cho ta đi đến an ổn. Cũng vì biết sợ nên chúng ta rời xa từ bỏ tham sân si, tinh cần nỗ lực tu tập thiện pháp, nhận ra chân lý như thật thường sống trong sự giác ngộ tròn đầy.
Ta ồn ào náo động lăng xăng, tâm ta theo đó cũng lung tung chạy nhảy, ta sống đơn giản bằng lòng với hiện thực, tâm ta theo đó mà cam phận giản đơn. Tâm duyên theo trần mà khởi, cảnh theo tâm mà sinh, biết kiềm chế nhận biết buông bỏ xã ly thì mới an lạc được. Không sống với quá khứ những gì đã qua, không bận lòng với hiện tại những gì đang đến đang đi, chẳng lo sợ cho tương lai những gì chưa có mặt. Bỏ, buông, lìa xa tất cả, để có được cái tâm sáng tỏ tự tánh bừng dậy trí tuệ sáng soi, không phải một sớm một chiều và ai cũng làm được. Chúng ta phải ra công gắng sức, liên tục dụng công mài dũa tinh luyện, nỗ lực tinh cần huân tập thiện pháp, thường xuyên nuôi dưỡng từ bi trí tuệ, tùy duyên hành xử. Bỏ khổ tìm vui, hành thiện diệt ác, một lòng hướng đến chân lý cao tột, từ bỏ tham sân si vô minh tăm tối, chấm dứt khổ đau, kiểm soát tâm ý, chế ngự các căn, tăng trưởng hạnh lành cao cả. Tạo mọi điều kiện để cho tuệ giác phát khởi, kết mọi thắng duyên để cho tánh Phật sẵn có trong mỗi chúng ta đêm ngày lớn mạnh, nuôi dưỡng lòng từ bi trí tuệ rực sáng tỏa hương. Một khi chúng ta thấu hiểu có được sự minh mẫn sáng suốt tỏ tường, nhận chân nguồn cội của từng vấn đề, thường xuyên sống với tỉnh thức, không mảy may vướng bận, dứt bỏ mọi lo toan, lìa xa mọi tăm tối. Được vậy, có như vậy, thì cái tâm đó, con người đó hành giả đó, mới trở nên trong sáng tròn đầy tỏa chiếu, mới trở nên nhẹ nhàng thong dong, an lạc giải thoát mới thường xuyên trú ngụ.
Cùng một tác giả
1. Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ, Chân Nguyên xuất bản 1987, Lotus Media tái bản 2019
2. Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ 2, Lotus Media xuất bản 2019
3. Gõ Cửa Vô Thường, Lotus Media xuất bản 2019
4. Cõi Thơ Thanh Trí Cao, Lotus Media xuất bản 2019
5. Tìm Hiểu Thơ Thiền Việt Nam, Lotus Media xuất bản 2019
6. Tư Tưởng Thiền Tông Việt Nam, Văn Học Phật Việt 2020
7. Sám Hối Sáu Căn, Pháp Tu Vô Cùng Giá Trị và Lợi Lạc, Văn Học Phật Việt 2020
***