Ban sơ, Phật giáo là một phong trào cải cách chống lại uy quyền Vệ-đà, nghi lễ Bà-la-môn và hệ thống giai cấp đầy bất công cuả xã hội Ấn độ . Thời Đức Phật, khuynh hường nầy phát triển rộng khắp dưới sự lãnh đaọ của Đức Phật, đạo Phật được số đông dân chúng và gai cấp thống trị ủng hộ. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 9 DL, Ấn giáo tung đòn phản công: tư tưởng đạo Phật được cố ý đem vào Ấn giáo và Đức Phật lịch sử được tuyên bố là một Hóa thân của thần Vệ Nữu. Những gì trước đây là điểm hấp dẫn của Phật giáo nay cũng được tìm thấy trong Ấn giáo.
Trong truyền thống Ấn giáo, vai trò chánh yếu của phụ nữ là sanh con và quán xuyến gia đình. Do đó đời sống độc thân bị coi là vô ích (cho xã hội) và người đàn bà không chồng con bị xã hội khinh rẻ. Trái lại trong Phật giáo, đời sống gia đình bị xem là trở ngại cho sự thăng tiến tâm linh. Nơi nào Phật giáo thanh hành, người phụ nữ không bị bắt buộc lấy chồng để có được sự tự trọng và đồng thuận của gia đình. Khi Giáo đoàn Tỳ Kheo Ni được thành lập, thì càng có nhiều cơ hội thăng tiến cho người phụ nữ có khuynh hướng tôn giáo và tâm linh.
Mặc dầu Ấn giáo ở mức độ cao cũng có tính thoát tục, tôn giáo nầy mang nặng yếu tố và niềm tin về giới tính và sự duy trì đời sống. Sự tôn thờ rộng khắp hai bộ phận sinh dục nam nữ, được cho là biểu tựợng cho sự hợp nhất của tín đồ và Thượng Đế, là một thí dụ. Điều nầy rất tương phản với Phật giáo, vốn luôn luôn xem sự trong sạch về giới tính và sự tiết độ trong mọi lãnh vựclà phương tiện hữu hiệu nhất để chấm dứt sanh tử (bằng cách diệt trừ dục vọng, căn bản của mọi đau khổ).
Truyền thống văn hóa Ấn Độ, được biểu trưng bởi Bà-la-môn hay Ấn giáo, chủ trương sự khoái lạc là một trong bốn mục tiêu hợp pháp trong đời sống. Khoái lạc là mục tiêu thấp nhất, dưới Tài sản, Bổn phận, và Giải thoát - nhưng nó là hợp pháp. Khoái lạc không hấp dẫn đối với nhà tu Du-già, nhưng cư sĩ tại gia được quyền theo đuổi và hưởng thụ nó với sự tiết độ.
Càng ngày càng có nhiều người Tây phương theo khuynh hướng Phật giáo hơn là Ấn giáo và Hồi giáo. Mặc dầu số lượng còn ít, nhưng chiều hướng nầy đang gia tăng.
Thích Phước Thiệt dịch mục “Hinduism/ Buddhism” trong “The Seeker’s Glossary: Buddhism”, trang 208.