Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Não & Tâm

03/03/201818:23(Xem: 5685)
Não & Tâm
nao bo 2

Não
 & Tâm
Lê Huy Trứ
 
Trong tựa đề, “Có phải Tâm là sản phẩm của Não hay Não nhận chỉ thị từ Tâm? ” Arjun Walia
 
Is Consciousness A Product Of The Brain Or Is The Brain The Receiver Of Consciousness?”  Arjun Walia
 
Arjun Walia diển tả, “Tâm là đường lối chúng ta cảm nhận và quan sát thế giới của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ, chúng ta cố ý, cảm nhận, nhạy cảm hơn.  Câu hỏi lớn nhất cho nhân tâm ngày nay “rằng thì là” (whether) nó đơn giản là một sản phẩm của não của chúng ta, hay nếu não nhận chỉ thị từ Tâm.  Nếu Tâm không là đặc sản của não bộ thì nó có nghĩa là cái nhân thể vật chất không bị lệ thuộc vào chuỗi tâm thức, hoặc tự tâm.”
 
Consciousness is the way we perceive and observe our world, the way we think, our intentions, feelings, emotions and more. One of the biggest questions regarding human consciousness today is whether it is simply a product of our brain, or if the brain is a receiver of consciousness. If consciousness is not a product of the brain it would mean that the human physicality is not required for the continuation of consciousness, or consciousness itself.”  Arjun Walia
 
Đại khái, nếu sắc không phải là cái nhân tạo (produce, affect) ra tâm quả thì dòng tâm thức không cần thiết là nguyên nhân (cause, root,) hay tự tâm sinh, tự tánh vô sanh. 
 
Theo khái niệm nhân quả, thì Ta (não) là nhân tạo ra tâm là quả, hay dòng tâm thức không cần tới não để tạo ra nhân sinh (chúng sinh lẫn vạn vật) hay tâm tự tạo lấy tâm không cần đến nhân sinh.
 
Vài khoa học gia khác cũng nói rằng “tâm” của ta không bị nhốt ở trong não, hay ngay cả thân mình.
 
Scientists say your ‘mind’ isn’t confined to your brain, or even your body.”
 
Lý thuyết gia vật lý, giải Nobel vật lý 1918, Max Planck nói, “Tôi thấy tâm như nền tảng chính.  Tôi xem vật chất (sắc) như kết quả từ tâm.  Chúng ta không thể bắt kịp (get behind) tâm.  Tất cả những gì chúng ta nói, tất cả những gì mà chúng ta xem như là hiện hữu, từ tâm tưởng.”
 
I regard consciousness as fundamental. I regard matter as derivative from consciousness. We cannot get behind consciousness. Everything that we talk about, everything that we regard as existing, postulates consciousness.” – Max Planck, theoretical physicist who originated quantum theory, which won him the Nobel Prize in Physics in 1918
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu:  Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật.
 
 “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism.” Von Neumann
 
Eugene Wigner, nhà lý thuyết vật lý và toán học gia, giải Nobel vật lý 1963, đã viết, “Nó đã là điều không tưởng để công thức hóa những luật của đa lượng tử cơ khí trong phương cách đầy hợp nhất mà không đề cập tới tâm.”
 
It was not possible to formulate the laws of quantum mechanics in a fully consistent way without reference to consciousness.” – Eugene Wigner, theoretical physicist and mathematician. He received a share of the Nobel Prize in Physics in 1963
 
Phật Giáo đã định nghĩa rất chi tiếc về tâm bồ đề này với một rừng kinh sách.
 
Tâm không ở trong ta, không ở ngoài ta, mà có thể ta ở trong Tâm?
 
Nhưng khi tâm vào trong tim ta thì tâm là ta và khi ta vào ở trong tâm lòng thì ta là tâm?
 
Đơn giản hóa, vô tâm, vô ngã, không vào không ra!

nao bo
 
Arjun Walia viết, “Một trong những thí dụ điển hình nhất được gọi là hiện tượng tâm linh ngoại cảm (parapsychological phenomena.)  Típ hiện tượng này đã cho thấy là chúng ta nhận tín hiệu không cần dùng đến ngũ quan, rằng chúng ta có thể dùng tâm linh để ảnh hưởng tới vật chất và những lục phủ ngũ tạng bằng cái dùng tâm lực để cân bằng, điều hòa những phản ứng hóa học trong cơ thể và để tự bình phục.  Nghiên cứu cũng chứng tỏ rằng có vài người có công năng để xuất hồn và có thể thấy được cõi khác.  Nghiên cứu đã suy ra rằng cái tâm thức vượt không gian đó có bản tánh như là vô sở vô trụ (non-locally correlated).”
 
One of the best examples (in my opinion) is what’s called parapsychological phenomena. This type of phenomena has demonstrated that we can receive information without the use of our senses, that we can mentally influence physical devices and living organisms by using our consciousness. Research has also shown that some people have the ability to project their consciousness outside of our body and view another remote location. Research has suggested that distant minds may behave in ways that are non-locally correlated.” Arjun Walia
 
Mới nghe qua có vẻ hoang đường, mê tín dị đoan trái ngược với những gì Đức Phật dạy.   Cũng nên nhớ rằng trong kinh điển đã ghi lại, có những đại đệ tử của Phật đã đạt thần thông trước khi quy y Phật và thỉnh thoảng họ cũng biễu diễn thần thông cho các bạn trong lúc vui chơi với nhau nhưng Đức Thế Tôn thường cảnh cáo họ là không nên khoa trương và sở trụ vào những cái huệ năng chứng được tạm bợ đó.
 
Những công án trên đang được khoa học nghiên cứu và sẽ được chứng minh trong một ngày gần đây như ta đang thấy trong những phim ảnh của khoa học giả tưởng.  Đa số những điều không tưởng đó đã trở thành sự thật nhờ những bộ óc tưởng tượng phong phú của nhân loại cùng văn minh tiến bộ của khoa học hiện đại.  Tất cả từ Tâm tưởng mà ra?
 
Đại khái, tiến sĩ Gary Schwartz nói, “Những hiện tượng tâm linh này rất phổ thông nên chúng không thể coi là bất thường hay bị liệt vào những ngoại lệ của những luật tự nhiên thay vì chúng cần được giải thích trong khuôn khổ cởi mở hơn vì chúng không thể xây dựng trên thời biểu giới hạn của vật chất.”
 
 “These events are so common that they cannot be viewed as anomalous nor as exceptions to natural laws, but as indications of the need for a broader explanatory framework that cannot be predicated exclusively on materialism.” – Dr. Gary Schwartz
 
Không thể dùng khoa học vật chất để giải thích hay chứng minh hiện tượng tâm linh, phi vật chất?
 
Khoa học không hoàn toàn phủ nhận những điều chưa chứng minh được vì trong lịch sử khoa học có những điều không tưởng được nghiên cứu, thí nghiệm, quan sát, chứng minh, công nhận, và thực hiện.
 
Khoa học thực dụng dựa vào kiến thức và suy luận để giải thích những hiện tượng trong vũ trụ khác với những kẻ không có trí tuệ, kém học thức, mê tín dị đoan khi thấy những công năng lạ lùng chưa được khoa học giải thích đó vội vàng thần thánh hóa, tin đó là phép lạ, tâm sợ ma, lòng sợ hải rồi phủ phục, thờ phụng, bái lạy, ca tụng nên dễ bị khống chế và bị lừa bịp bởi những tập đoàn ma giáo chuyên nghiệp.
 
Dĩ nhiên, ngay đến bây giờ và khoa học lẫn kinh sách vẫn chưa thật sự chứng minh được những điều trên chứ không phải là không chứng minh được.
 
Những điều huyền bí khác thường mà con người tín ngưỡng nhưng chưa có thể giải thích thích đáng được Khổng Tử đề nghị:  Kính nhi viễn chi. 
 
Cái gì bí tỉ, không trã lời được thì đổ thừa đó là “Trời sinh”.  Có thể vì vậy mà tín ngưỡng thần giáo vẫn còn cần thiết và luôn tồn tại trong tâm phan duyên, “thần hồn nhát thần tính,” của nhân sinh?
 
Tuy nhiên, con người có trí thức lẫn trí tuệ phải thể hiện tâm từ bi, lòng quảng đại, không nên phỉ báng lòng tin của tôn giákhác.  Người Phật Tử nên tôn trọng tự do tín ngưỡng của họ trừ khi chúng ta phải tự vệ bằng cách giáo hóa nhân sinh, bảo vệ hòa bình và sự thật.
 
Cái tâm [phức tạp] cũng được hình dung như là dòng tâm thức nơi những khái niệm của căn trần và tâm thức tiếp tục thay đổi không ngừng. 
 
“The mind is also portrayed as the stream of consciousness where sense impressions and mental phenomena are constantly changing.”  Mind, Wikipedia
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2720)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 708)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2269)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2495)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3023)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5919)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2196)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2335)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2785)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com