Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Chuyện Nho Nhỏ

19/11/201407:46(Xem: 10583)
Những Chuyện Nho Nhỏ
red_rose_100

 



Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình. 




 

Vậy nên, sau khi đọc kinh sách hoặc nghe pháp từ các vị sư, thầy, chúng ta phải “lấy ý quên lời” rồi chiêm nghiệm tinh tuỷ giáo pháp ở chính kinh nghiệm bản thân, trong đời sống tương giao căn-trần-thức. Có những điều về Phật học chúng ta có thể giảng nói rất rành rẽ nhưng nó chưa phải là cái thực, chỉ khi mình chứng nghiệm rồi mới thấy biết nó một cách cụ thể, sống động hơn. Bài viết này tôi muốn chia sẻ với những người tu Phật về lãnh vực này, những chuyện nho nhỏ thôi mà theo tôi, nó mới chính là “pháp thực”.

I- Bài thứ nhất: Rắn độc cắn.
Tôi nhớ khoảng tháng 10 năm 1991, khi ấy Rừng Thiền HKST còn hoang sơ, tôi ở trong một cốc tranh nho nhỏ. Hôm ấy mưa lũ, lạnh; tôi có công việc ở chùa ngoài, vào núi muộn, phải lội qua những đám ruộng, những khe nước ngập ngang ngực (tôi không biết bơi!). Chạng vạng tối tôi mới về đến “chùa”; thay y áo rồi bỏ mùng, đắp chăn, nằm nghe mưa gió ầm ào ở bên ngoài. 

 

Cái cốc tranh bằng bốn cọc tre xiêu vẹo với mấy tấm phên sơ sài cứ mãi rung rinh, lung lay không biết nó sẽ sụp đổ lúc nào. Ngay hoàn cảnh ấy, tôi với cảm giác bất an, cảm nhận thấm thía sự nhỏ nhoi, bất lực của thân phận con người trước sự cuồng nộ vô chừng, vô đỗi của thiên nhiên.

Thuở ấy tôi tập được thói quen, là khi ngủ, chỉ ngủ bằng một tư thế từ đầu hôm cho đến sáng. Đêm ấy, tôi ngủ với một con mèo con lạnh xo ro tội nghiệp. Chừng gần sáng, nghe tiếng mèo kêu, tôi tỉnh dậy, nghĩ chắc là con mèo muốn đi “vệ sinh” nên tôi nghiêng người, trở mình, vén mùng thả con mèo ra ngoài. Ngay khi ấy, tôi nghe dưới lưng bàn chân một cảm giác đau buốt như bị con gì cắn (1). Tôi bật ngồi dậy, lấy đèn pin tù mù - do gần hết pin - soi tìm nhưng không thấy gì cả. Lúc ấy trời đã tạnh mưa, tôi rời giường, chống cây gậy tre lò dò đi xuống ngôi nhà ở (cái láng) của một số công nhân hợp đồng trồng rừng. 

Sau một hồi đánh thức dậy, tôi nhờ họ đốt đèn lên, đưa lưng bàn chân phải cho họ xem và kể chuyện bị con gì cắn không biết! Có một thanh niên vốn hay đi đào vàng, đi trầm, do lũi rừng nhiều nên có kinh nghiệm, nhìn dấu vết thương trên lưng bàn chân của tôi, cậu nhăn trán nói: “Dấu 2 vết răng như thế này là thầy bị rắn hổ cắn rồi”. Nói thế xong, cậu thanh niên cúi xuống, lấy miệng hút nhiều lần, nhổ ra, sau đó, xé ngay tấm vải cột chặt vào cổ chân, cốt ngăn độc lên tim. 

Tuy thế, cậu ta thẫn thờ nhìn vết thương không sưng tấy lắm, nói tiếp: “Nếu là rắn lục xanh, rắn lục lửa thì vết thương sưng tấy, đau nhức, sưng phù ngay nhưng không chết người; còn đây là rắn hổ độc, sưng ít, nhưng rất nguy hiểm”.Nói thế xong, cậu ta bảo tôi nhai một nhúm thuốc lào, nuốt nước rồi đắp bã thuốc lên vết thương. Đấy là cách chữa trị duy nhất, vì không còn đường lui tới khi nước lũ đã dâng ngập đến sát chân núi.

Lát sau, tôi cảm nghe cơ thể bắt đầu khác lạ. Bây giờ viết lại tôi có thể kể ra những hiện tượng đó như sau: Cơ thế bắt đầu tiết mồ hôi nhờn. Mắt bắt đầu trông lờ mờ. Tai cảm giác nghe rất xa xăm. Muốn nôn mữa. Cơ thể rã rời dường như không còn tí hơi sức nào... Không nói ra nhưng tôi biết là nọc độc đã vào tới trung khu thần kinh rồi nó mới tác động toàn bộ lên cơ thể như vậy.

- Gánh thầy ra làng, tìm thuốc!
- Ra xóm lấy ghe chở thầy xuống bệnh viện Kim Long!
Mọi người bấn loạn, xôn xao góp ý. Nhìn những khuôn mặt thất sắc, lo âu của họ, tôi trấn tỉnh, cố gắng mỉm cười: - Vô ích thôi, độc đã đi vào trung khu thần kinh rồi. Cứu chi cũng không kịp nữa. Thầy chấp nhận cái chết mà. Đừng sợ hãi.

Tôi nhờ lấy một tờ giấy và cây bút để viết dặn dò vài điều trước khi chết. Đại khái là kiếm chỗ sau đồi, đào hố chôn, không để lâu mà làm gì. Đừng làm phiền nhiều người. Dặn dò thư ký và thủ quỹ công trình chi tiêu như thế nào để hoàn thành công trình cầu Bạch Yến. Thế thôi. Chẳng còn gì để bận lòng.

Tuy nhiên, khi viết thế xong, tôi lại nghĩ: “Vô lý! Chết gì không chết lại chết vì một con rắn độc! Cầu Bạch Yến chưa làm xong. Rừng Thiền còn mênh mông công việc. Không thể chết khi ‘ước nguyện’ chưa thành! Mình phải sống! Cương quyết là mình không thể chết!”

Khi ấy, ý chí muốn sống bốc lên cao chót vót, như có một sức mạnh tiếp năng lực, tôi với chiếc gậy, chống và bước đi. Chỉ vài bước là gục ngã vì cơ thể không chịu sự sai khiến của ý chí. Cậu thanh niên đến giúp, tôi nói, “không”, hãy để tự ý thầy làm! Tôi tựa gậy đứng lại được, rồi lại bước đi. Lại gục ngã, lại đứng dậy. Cứ thế, cứ thế, tôi chống chọi sự “gục ngã” bằng tất cả sức mạnh bình sinh của ý chí. Cứ ngã, cứ đứng lên hoài như vậy. Cho đến khi đi được thì chừng đâu khoảng hai tiếng đồng hồ thì tôi vã mồ hôi ra, người nhẹ hẫng. Tôi cất cao lời chiến thắng:

- Thầy sống rồi! Mồ hôi vã ra là dấu hiệu nọc độc cũng theo đó mà đi ra. Thầy khoẻ lại rồi!

Một tuần sau, lũ rút, tôi ra chùa ngoài, mời bác sĩ quen lên xem. Vị ấy nói: “Thầy thoát chết một cách kỳ diệu, bây giờ chỉ cần tiêm thuốc chống ‘hoại tử’ mà thôi!”

Kỳ lạ là sau khi bị rắn cắn, suốt mấy năm dài tôi không hề bị cảm cúm hoặc bất cứ bệnh thời khí nào. Dường như nọc độc của rắn còn ẩn trong máu huyết, sống chung với máu huyết đã tạo nên sự “miễn dịch” cho cơ thể hay sao ấy!?

Kể lại chuyện trên, cốt ý tôi chỉ muốn nói rằng, bao nhiêu năm tu Phật, bây giờ tôi mới hiểu nghĩa “dục ái, luyến ái đeo níu các kiếp sống” là gì! Nó chính là “ý chí muốn sống”, “dục vọng muốn tồn tại” cảnh giới này hay cảnh giới khác. Ý chí đó, dục vọng đó rất mạnh mẽ, nó kéo theo toàn bộ các tâm sở. Nó là sức mạnh tăng thượng, điều khiển cơ chế vận hành thân tâm, đưa ta đi tới đâu theo ý muốn. 

Và dĩ nhiên, ý chí đó, dục vọng đó phải được nuôi dưỡng không ngừng nghỉ, nó liên tục, bền bỉ, làm cho các sát-na tâm tư tác (cetanā) sanh và diệt trên cùng một đối tượng, trong trường hợp của tôi là suốt hai tiếng đồng hồ, là tỉ tỉ tỉ... “ước muốn tồn tại”! Nó tạo nên một năng lực không gì cưỡng nổi. Ngược lại, nếu tâm thức tôi yếu ớt, dã dượi, bạc nhược thì nó sẽ như ngọn đèn tàn, cạn dầu, lụn bấc, nó sẽ tắt và tôi sẽ chết, đi theo dòng nghiệp.

Trong các kiếp sống sinh tử, do “dục vọng muốn sống. muốn tồn tại” ấy, “ý chí cường lực” ấy, mà nó đẩy chúng ta đi từ cảnh giới này sang cảnh giới khác.

Ghi chú:

(1) Tôi đoán chừng là vì ngoài trời mưa lạnh nên con rắn hổ đã tìm vào nhà và ẩn trong chăn. Do cả đêm nằm ngủ tôi chỉ giữ một tư thế, gần sáng, do mèo kêu, tôi trở mình, nghiêng người, giở mùng bỏ mèo ra ngoài. Chính khi cử động ấy, con rắn cảm giác bị tấn công nên nó liền phản ứng.

II- Bài thứ hai: Trặc ngón chân trỏ.
Cách đây nửa tháng, vào buổi chiều, khoảng 17, 18 giờ, ngày 30/10/2014, tôi đang ngồi “chò hõ” (chồm hổm) trên sàn nhà để đọc vài trang trong một quyển sách, tìm kiếm tư liệu cho một bài nghiên cứu. Ngước nhìn phía trước, cách chừng hơn thước, có một quyển sách khác, tôi với tay trái để lấy. Vì nó hơi xa nên tôi đã nhướn người quá đà làm cho mười ngón chân bị cụp, “quỵp” xuống. Do chân trái làm điểm tựa nên “một cảm giác thốn đau đã xẩy ra ở đấy”. Trở lại tư thế khi lấy được sách, tôi lần trang, đọc và không để ý đến nó nữa.

Khi xong việc, khoảng 21 giờ, cảm giác đau bây giờ nó mới phát lộ triệu chứng: Cái cụm 5 ngón chân trái hơi sưng sưng. Tôi cũng kệ, nằm bật đèn đọc sách. Hơi khuya, tôi nằm thở một chút rồi ngủ. Sáng ngày, cái bàn chân trái sưng to, vừa bỏ chân xuống giường là nó nhức đau, do máu tụ xuống chỗ đó. Thử giở chân lên cao thì nó bớt đau. Do tôi chưa hề bị như thế lần nào nên không rõ “vấn đề” gì xẩy ra nơi mấy ngón chân. Không phải gãy xương vì gãy xương thì đau chịu chi thấu! Có lẽ trật khớp chăng, tôi cũng không rõ.

Thế là sau đó, tôi chịu đựng cơn đau, nhức buốt suốt ba bốn ngày mặc dầu đã sử dụng đủ loại pháp đối trị như xoa bóp bằng thuốc đặc trị bong gân, trặc khớp của thầy võ, ngâm chân nước nóng có muối, hành hương; uống thuốc Tây kháng viêm... Tôi định đi chụp X quang xem thử bị cái gì ở trong đó, nhưng một đứa cháu là thầy “mằn” kinh nghiệm 30 năm lên xem và nói: “Ôn bị trật khớp một chút thôi, cháu sẽ trả lại vị trí cũ!” Tôi nói: “Nghe nói là đau lắm!” “Đau, dĩ nhiên rồi, nhưng chỉ mấy giây thôi!”

Tôi đồng ý! Nó lấy tay xem xét mấy ngón chân và bắt trúng chỗ ngón trỏ, nói là tìm ra chỗ rồi! Xong, nó thò mấy ngón tay phải lật qua lật lại! Trời đất, nó nói mấy giây mà tôi chịu đựng cơn đau gần một phút! Kinh khiếp! Tôi chịu trận, trân mình lên, răng cắn chặt, mồ hôi túa ra, nước mắt tự động chảy! Cuối cùng, dường như có nghe một cái “rắc” nho nhỏ, nó nói, xong rồi! Tôi thở phào, người nhẹ nhõm! Nó nói, vậy là ít hôm nữa sẽ lành thôi!

Quả thật vậy, đau nhức không còn nhưng chân còn sưng tấy, từ đây, tôi thường ngâm chân bằng nước nóng, muối và hành hương; và sau đó đắp “nha đam” cho nó mát. Hiện tại thì đi lui, đi tới nhè nhẹ được rồi!

Mấy ngày ngồi ngẫm ngợi! Lạ! Quái dị là cơn đau! Dường như mấy chục năm qua tôi không bị đau gì cả. Lục phủ ngũ tạng, tim mạch, áp huyết, đường, mỡ gì gì đó, xem ra, nó “im re”. Đây là lần thứ hai tôi đau nhức kể từ độ bị rắn độc cắn, cách đây gần 25 năm. Rắn độc cắn thì nọc độc nó đi ngay, đi thẳng vào máu huyết, tan ra trong máu huyết, nên không đau nhức bằng trặc khớp lần này. Nói thì hơi quá nhưng sự thật tôi đã học được rất nhiều điều từ việc nho nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với mọi người.

Thứ nhất, là đau, cơn đau. Tôi đau chút ít thôi, chưa được một phút. Trong chùa tôi có một vị sư, đau quanh năm, nhức buốt quanh năm, đủ thứ bệnh. “Thầy biết không – có một vị sư kể lại – Sư ĐT luôn vật vả, đau đớn, mỗi lần uống thuốc, uống luôn cả ‘nạm’ (nắm), thấy mà ớn!” Tôi nghĩ: Mình mới đau một chút mà cảm giác chịu đựng không nổi, huống chi người ta đau nhức quanh năm suốt tháng. Trước đây, sư ấy thường bị tôi la rầy, lúc nào cũng “xìu xìu, ểng ểng”! Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy thương, tự dưng môt sự cảm thông bao la tràn ngập tâm hồn. Tôi chạnh nghĩ đến bao nhiêu người trên đời này bị đau đớn, bệnh khổ hành hạ, gấp trăm lần mình? Từ ý nghĩ này, các trạng thái tâm như tha thứ, cảm thông, tâm từ, tâm bi tuy không cố ý mà tự dưng chúng tự động khởi phát. 

Còn nữa, mình đau như thế nào, chúng sanh cũng đau như thế. Những hình ảnh thuở nhỏ hoang nghịch như bẻ chân châu chấu, bẻ càng cua hoặc bắn chim, câu cá, mổ giết gà, vịt... đúng là vô tri, vô trí, vô cảm một thời! Lạy Phật, nhờ tu Phật, chúng ta đã tránh được tội giết hại, đánh đập, hành hạ chúng sanh không thương xót, cách này hay cách khác.

Thứ hai, pháp nó đến! Nhân, duyên, quả gì đó nó đến rất lặng thầm, rất tình cờ! Bao nhiêu năm, do có tu tập chánh niệm, tỉnh giác, tôi thường đi lui đi tới, lên xuống nhiều bậc đá, luôn với sự cẩn trọng, chậm rãi nên rất khó “bất cẩn” vấp cái này, cái khác. Mình ngồi đọc sách mà! Hoá ra, “nó đến” dù mình đang làm việc nhẹ ở trong phòng, nó đến một cách không ngờ tới! 

Vậy thì sống giữa cuộc đời, với mọi tương giao, mình chẳng lường được cái gì; vả có thể cả hoạn nạn, tai ương, bệnh tật... chưa biết sẽ xẩy ra lúc nào! Như đánh quần vợt, dường như mình luôn sẵn sàng đón đợi cú banh, chẳng biết nó sẽ rơi vào hướng nào! Câu kệ thơ của thiền sư Viên Minh chợt hiện ra:

“ Nói, làm thường thận trọng,
Luôn trọn vẹn chú tâm;
Lắng nghe, quan sát rõ,
Đến đi, pháp lặng thầm!”

Đúng là pháp đến nó lặng thầm thiệt!
Lại còn điều kỳ lạ nữa, không giải thích được, là trước đó 3 ngày, từ Lào về, tôi mua một cây gậy tre có tên là “trúc kim cương”! Mua gậy là điềm triệu cho cái ngón chân trặc này hay sao chứ? Không biết! Và còn biết bao nhiêu điều về nhân duyên quả xẩy ra trên đời này, cho chính mình, quả thật là tôi không biết gì hết, không dám biết gì hết!

Thứ ba, cái đau, cần phải có cái đau để xem thử cái tâm của mình như thế nào! Phải thật sự chiêm nghiệm nó! Những người tu tập minh sát thường nói rất giỏi, rất hay: “Xem cơn đau chỉ là cơn đau, nó chỉ là một cảm thọ thôi! Thọ có sanh thì thọ ấy có diệt!”  Mà tôi, chính tôi cũng thường giảng cho thiền sinh như vậy! Bây giờ, khi cơn đau đến, do đau nhẹ, suốt mấy ngày, tôi mỉm cười với nó nên cái đau chỉ ở nơi chân chứ không ảnh hưởng gì đến cái tâm của mình cả. 

Nhưng khi “thợ mằn” lắc cái khớp lại thì nó lại khác! Nó đau kinh khiếp! Tôi trân mình chịu đựng chứ không mỉm cười nổi! Thế đấy! Vậy thì rõ ràng có những cái đau khác nhau! Có những cái đau mình “niệm” được, “niệm” là nó đi. Nhưng có những cái đau mình “niệm” nó không đi! Mình bất lực hoặc trân người chịu đựng! Tôi thấm thía câu kinh văn: “Sắc không phải là tôi, là tự ngã của tôi; và thọ... cũng vậy, không phải là tôi, tự ngã của tôi!” Chẳng “làm chủ” được cái gì cả!

Thứ tư, chuyện “rướn” người để lấy quyển sách! Rướn người là quá sức của cái thân! Cái gì quá sức là trật rồi! Lý trung đạo của nhà Phật không chỉ điều chỉnh tâm, điều chỉnh trí, tu tập, uống ăn, ngủ nghỉ mà còn cả tứ oai nghi nữa! Đừng như cái đồng hồ quả lắc, cứ rơi vào cực này rồi cực khác. Biết bao thảm hoạ trên cuộc đời vì những cái cực nầy! Từ rày, tôi phải lấy cái giáo nghĩa của trung đạo để áp dụng “tất tần tật” trong cuộc đời tu tập của mình, thân cũng như tâm.

Thứ năm, có thân thì có bệnh, có thân là có đau! Biết bao nhiêu năm tôi đã tự hào, ngã mạn mình không bệnh, không đau! Một câu trong 10 điều tâm niệm hiện ra: “Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh tật. Người không bệnh tật ắt dục vọng dễ sanh!” Lại nhớ lần đầu tiên khi tôn giả Mahā Kassapa vừa gặp đức Phật, ngài đã bị đức Phật giáo giới về 3 cái ngã mạn của ngài, thay cho hình thức thọ giới tỳ-khưu: Ngã mạn về thọ sanh, dòng tộc (jātimāna), ngã mạn về kiến thức, hiểu biết (ñāṇadiṭṭhimāna), ngã mạn về sắc thân xinh đẹp (kāyamāna). 

Trong liên tưởng ấy, tôi thấy mình bị “ngã mạn về sức khoẻ, ngã mạn vì vô bệnh!” chi phối trong nhiều năm nay mà không hề biết! Vô minh là vậy. Hễ thấy ai đau, ai bệnh thì tôi tự mỉm cười hoặc chê trách, chế nhạo họ, coi thường họ: Nào là ăn chi cho nhiều, ăn nhiều thì toàn bộ cơ thể làm việc mệt! Ai bảo ăn cho nhiều mỡ nhiều béo vào bây giờ sinh ra đủ thứ bệnh! Nào là ai bảo sinh hoạt vô chừng, vô đỗi làm chi! Nào là không biết tu thiền giữ tâm yên tĩnh, khí huyết, âm dương thuỷ hoả điều hoà. Người có tu tập không bao giờ bị bệnh cả! Điều tôi nói dù nó là đúng, không sai, nhưng không nên vậy, đừng nên tự hào, ngã mạn một đỗi đường, một giai đoạn đời người, vì có thân thì có bệnh, đó là sự thật ngàn đời!


Thật là thấm thía! Thế thì “cái đau cái bệnh” là tốt, vì nó đang điều chỉnh lại cái gì đó ở nơi ta đã vận hành sai trật! Nó đúng trong mọi trường hợp. Về phương diện tu tập hướng thượng, nó làm yên lặng bớt một số kiết sử khi ta biết chiêm nghiệm để học bài giác ngộ!

Thật là tuyệt vời! Chỉ cái ngón chân đau, “chuyện nhỏ như con thỏ” mà tôi học được nhiều bài học lợi lạc cho bản thân trên đường tu tập của mình. Vậy thì theo tôi, sau khi đọc kinh sách, chỉ cần nhớ cái tinh yếu, còn nên quên tất cả. Hãy bỏ quên tất cả để học “pháp thực” ngay nơi sự tương quan căn trần thức, một “hạt bụi” phát sanh cũng được nhìn ngắm và quan sát một cách cẩn cẩn, nghiêm túc thì lợi lạc cho việc “giác ngộ, giải thoát” cho mình biết là chừng nào!

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2739)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 710)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2283)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2509)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3028)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5949)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2201)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2345)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2794)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com