Linh thiêng chùa cổ Hoa Tiên với nhiều bí ẩn
Chùa cổ Hoa Tiên nằm ở ngoại ô thành phố Nha Trang, thuộc địa phận thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh. Chùa nằm cách "linh mộc" và cũng là đại mộc cây dầu đôi khoảng 1.000 bước chân, cách thành cổ Diên Khánh hơn 2km.
“Hoakhai kiến Phật Quan Âm chí
Tiênđắc chơn truyền Quảng Đức tâm”
Chùa Hoa Tiên tọa lạc đường Phân Bội Châu, thị trấn Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa (ngày xưa là ấp Phật Tỉnh, nhân việc đào giếng được tượng, nên ấp lấy tên là Phật Tỉnh)
Theo thi sĩ Quách Tấn, tác giả Xứ Trầm Hương, Chùa Hoa Tiên vốn là quan tự, do tỉnh lập năm Gia Long thứ 10 (1811). Chùa ngày xưa thờ Quan Thánh đời Tam quốc, ở gian giữa, thờ bà Thiên Y A Na ở bên hữu, thờ Phật ở bên tả.
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), tỉnh giao chùa cho làng. Lúc còn thuộc quyền tỉnh cũng như lúc đã giao cho làng, mỗi năm đến ngày 13 tháng giêng âm lịch, đều phải tổ chức hát bội tại chùa, tục gọi là “hát vía Ông”. Do đó, chùa trở thành địa chỉ tâm linh quan trọng ở Diên Khánh, và ngày 13 tháng giêng trở thành ngày hội vui hàng năm của người địa phương.
Đến triều Bảo Đại (1924-1945) hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật giáo, làng bèn đổi chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Ban đầu có một số hào mục không chịu. Vị tiên chỉ mới nghĩ ra một kế là cầu Quan Thánh thẩm định. Quan Thánh giáng cơ, phán rằng: việc dùng chùa ngài thờ Phật là việc chính đáng, bởi Phật là đấng chí tôn. Huống hồ, ngài cũng đã quy y tam bảo. Thánh đã dạy thì còn ai không dám tuân.
Làng bèn thỉnh tượng Phật vào thờ gian giữa, rước tượng Thánh sang thờ gian tả. Còn gian hữu vẫn thờ bà Thiên Y A Na. Kế đến quốc biến. Chùa cũng không tránh khỏi nghiệp chung. Cảnh vật phải chịu khá nhiều biến cải. Đến năm Kỷ Hợi (1959) chùa được trùng tu. Quy mô rộng lớn, kiến trúc tân thời nhưng vẫn giữ được vẻ Á Đông cổ kính. Chùa hướng về Tây Bắc. Trước mặt, con sông Cái nước chảy từ Tây xuống Đông, mở vọng cảnh của chùa thêm rộng.Vườn chùa cũng khá rộng, lại nhiều cây cao rậm. Nên quang cảnh cũng như ngoài đều đượm khí vị thiền lâm.
Nhưng đáng lưu ý nhất là Cây Cốc và ba tượng thần bằng đá của Chiêm Thành để lại. Cây Cốc là một “vị cổ lão” chắc là bạn đồng canh cùng cây Dầu Đôi ngoài quốc lộ. Gốc lớn có đến 10 ôm, hô hê hốc hỉu. Thân cao có đến bốn chục thước. Cành tua tủa trông giống đầu con nai chà Châu Phi. Truyền rằng dưới gốc cây có vàng. Ban đêm, người quanh vùng thường thấy “vàng đi ăn”, ánh vàng sáng rực. Thời Pháp thuộc, công sứ Bréda đòi đào gốc cây để tìm vàng. Người trong làng sợ tai họa xảy đến, nên nhiệt liệt phản đối. “Phép vua thua lệ làng”, viên công sứ đành thối nhượng. Gần đây nổi lên phong trào tìm vàng. Nhiều nơi cổ tích bị đào phá. Có mấy người Hời ở Phan Rang tìm đến chùa, trưng giấy tờ của ông bà để lại và xin được phép bới gốc cây cốc để tìm của. Chùa nhất định từ khước. Nhờ vậy mà cây cốc còn cao cội sum cành, và chùa còn giữ được một bảo vật vừa kỳ vừa cổ. Tượng thần cũng vừa kỳ vừa cổ, nhất là tượng bà Thiên Y A Na thờ trong chùa. Tượng nầy là một phiến đá xanh hình khối chữ nhật. Cao chừng năm sáu tấc, dày chừng một tấc rưỡi, rộng chừng một tấc rưỡi hai tấc. Không biết là một tác phẩm điêu khắc bị bỏ dỡ, hay là hình tướng một vị quái thần của Bà La Môn. Tượng chỉ khắc có nửa thân phía trước: Mặt có đủ mắt mũi miệng, hai tay chấp nơi ngực, đầu đội chiếc mũ nhọn như ngọn tháp Cao Miên. Còn phía sau lưng và khúc mình thì để nguyên dạng đá. Người trong ấp đã tìm được khi đào giếng xây chùa. Trông thấy nét mặt đàn bà, đồng bào cho là tượng bà Thiên Y A Na bèn đem vào chùa thờ phụng. Và nhân việc đào giếng được tượng, nên ấp lấy tên là Phật Tỉnh vì tin rằng bà Thiên Y cũng là một vị Bồ Tát như đức Quán Thế Âm. Còn hai tượng nữa thì ở dưới gốc cây cốc lồi lên. Hai tượng này xưa lắm. Nét chạm khắc đã mòn hết, lại bị hư hỏng nhiều chỗ. Một tượng cao chừng 6 tấc, một tượng cao chừng 5 tấc. Tượng mới lồi lên chừng bốn năm mươi năm nay. Cho là vật linh thiêng, vị trụ trì đem vào chùa thờ. Nhưng nửa đêm tự nhiên rớt xuống đất. Vị trụ trì sợ, liền đem ra thờ dưới gốc cây cốc, nơi tượng đã trồi lên. Hiện nay vẫn còn, song chiếc đầu gãy không biết ai đã lấy mất.
Đến vãn cảnh chùa Hoa Tiên, nếu cây Dầu Đôi là món “khai vị” thì cây cốc và những tượng đá Chiêm Thành là những món “tráng miệng” thích thú hơn cả “bữa cơm thịnh soạn của nhà chùa”. Còn một điểm hay nữa là Phú Ân Nam có hai ngôi chùa là Thiên Lộc và Hoa Tiên, mà cả hai đều đi ngõ hậu. Khách đàn việt đến chơi cửa thiền chắc lắm vị thuộc chuyện Tây Du. Khi bước vào ngõ, chợt nhớ chuyện Tề Thiên Đại Thánh nhờ đi ngõ hậu lúc canh ba vào phòng Tổ sư mà được truyền thọ thất thập nhị huyền công, thì hẳn có người sanh hy vọng rằng mình sẽ được vị trụ trì mật truyền tâm ấn. Đó cũng là một hứng thú vậy. Xứ Trầm hương có rất nhiều ngôi cổ tự nhuốm đầy những huyền tích ly kỳ mỗi nơi một chuyện. Chùa Hoa Tiên, đến nay vẫn còn được nhiều người lưu truyền về sự hiện diện của những pho tượng Phật lồi đầy bí ẩn. Cùng “kho vàng Hời” ẩn dưới gốc cây cốc đại thụ với thân bằng vòng ôm của hơn chục người.
Kho vàng này từng bị một vị công sứ người Pháp “dòm ngó” nhưng thâm ý bất thành. Người bảo vì bị những hồn ma giữ của trù ếm theo lời nguyền nên vị công sứ hoảng sợ. Kẻ khẳng định chính những pho tượng lồi huyền linh kia đã báo mộng nếu xâm hại kho vàng sẽ bị vật chết nên vị công sứ Pháp thối chí! Những lời nguyền và đồn đãi truyền đời ấy đã đưa du khách đến ngôi cổ tự Hoa Tiên và không khỏi ngỡ ngàng khi phát hiện những gì mà thiên hạ lâu nay râm ran… không phải là chuyện phịa!
Chùa cổ Hoa Tiên nằm ở ngoại ô thành phố Nha Trang, thuộc địa phận thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh. Chùa nằm cách "linh mộc" và cũng là đại mộc cây dầu đôi khoảng 1.000 bước chân, cách thành cổ Diên Khánh hơn 2km. Cây dầu đôi và thành cổ đều là "cổ tích" và di tích tỉnh Khánh Hòa, là chứng nhân sống của một thời đất nước chìm trong họa binh đao, từng chứng kiến biết bao người anh hùng của phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi khởi xướng bị giặc Pháp tử hình tại "Gò chết chém". Dưới gốc cây dầu đôi ngàn năm tuổi là miếu thờ Bình Tây đại tướng Trịnh Phong cổ kính, rêu phong. Trong gió lộng chiều tà, sau những ký ức miên man lời kể của cha ông về cái chết bất khuất của đại tướng Trịnh Phong ngày nào.
Về thăm chùa Hoa Tiên theo sự hướng dẫn, thuyết minh của Hòa thượng Thích Thiện Danh trú trì và Đại đức Thích Chơn Đạo, Giám tự khách vãn cảnh cảm giác như thể trôi ngược về quá khứ trăm năm khi được mục ngoạn ngôi cổ tự cổ kính đến lạ kỳ nằm khuất sau một thân cây cốc khổng lồ. Thân cây sần sùi bằng vòng ôm của nhiều người, cội rễ u nần, cành lá sum suê, lúc nào cũng lào xào tiếng gió lay cành lá, không khí mát rười rượi. Theo như những lời đồn thì phía dưới gốc cây này có kho vàng Hời mà ngày trước có rất nhiều kẻ toan tính, nuôi mộng ý bới đào, chiếm hữu!
Dựa vào các thư tịch cổ và sắc phong, được biết chùa được lập vào năm 1811 (năm Gia Long thứ 10, sau khi dẹp nhà Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long). Đến năm 1822 (năm Minh Mạng thứ 3, tên húy là Nguyễn Phúc Đảm, con trai thứ tư của Vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoàng hậu Trần Thị Đang, lên ngôi vua vào năm 1820 sau khi Vua Gia Long băng hà), Hoa Tiên tự được tỉnh giao cho làng. Đến triều Vua Bảo Đại (vị vua cuối cùng của triều Nguyễn), hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật giáo, làng đổi chùa thờ Thánh thành thờ Phật.
Đưa du khách đi ngoạn cảnh chùa, Đại đức Thích Chơn Đạo cho biết tính từ ngày khởi lập đến nay đã 203 năm nhưng kiến trúc của Hoa Tiên tự vẫn như ngày nào, vẫn giữ nguyên lối kiến trúc, bài trí qua bao đời trụ trì, tuyệt đối không có sự dịch chuyển, cải trang, làm mới. Chùa chỉ được trùng tu một lần duy nhất vào năm 1959 và lần trùng tu này chùa chịu một số biến cải nhưng cơ bản vẫn không thay đổi kiến trúc xưa. "Trước đây chùa rộng lớn lắm, bao quanh chùa là cây đại thụ, tán lá um tùm nên quang cảnh trong ngoài đượm khí vị chốn thiền lâm. Nhưng qua bao biến chuyển của thời gian, thời cuộc, phạm vi chùa bị thu hẹp rất nhiều. Một phần đất chùa bây giờ đã thuộc Trung tâm Dạy nghề Diên Khánh…”
Hiếm có ngôi cổ tự nào ở huyện Diên Khánh nói riêng, tỉnh Khánh Hòa nói chung còn lưu giữ được nhiều huyền tích ly kỳ và những dấu ấn trăm năm như chùa Hoa Tiên. Đó là những bảng sắc phong, câu đối sơn son thếp vàng được các triều vua Nguyễn sắc tặng. Cùng đó là vô số pho tượng cổ tương truyền được nhiều vị quan đầu tỉnh, hoàng thân quốc thích, nhà giàu có dâng cúng Phật và nữ thần Ponagar. Dừng bên pho tượng Phật cao khoảng 40cm được đẽo tạc bằng đá xanh với cánh tay hướng về phía trước như che kín pho tượng.
"Trong tác phẩm “Xứ Trầm hương”, thi sĩ Quách Tấn ghi rằng, chùa có đến 3 pho tượng thần bằng đá của Chiêm Thành để lại nhưng không hiểu sao nay chỉ còn có 2 mà thôi, gồm một pho tượng cụt đầu và tượng bà Thiên Y A Na dị hình"
"Tượng thần cũng vừa kỳ, vừa cổ, nhất là tượng bà Thiên Y A Na thờ trong chùa. Tượng này là một phiến đá xanh hình khối chữ nhật. Cao chừng năm sáu tấc, dày chừng một tấc rưỡi, rộng chừng một tấc rưỡi đến hai tấc. Không biết là một tác phẩm điêu khắc bị bỏ dở, hay là hình tướng một vị quái thần của Bà La Môn. Tượng chỉ khắc có nửa thân phía trước. Mặt có đủ mắt mũi miệng, hai tay chắp nơi ngực, đầu đội chiếc mũ nhọn như ngọn tháp Cao Miên. Còn phía sau lưng và khúc mình thì để nguyên dạng đá". Cao khoảng 0,6m, tượng cổ bị mất đầu, không rõ là tượng nam thần hay nữ thần vì những đường nét chạm khắc đã bị thời gian bào mòn. Các bậc cao niên ở vùng này lý giải tiền thân của pho tượng cổ nguyên vẹn chứ chẳng phải đầu lìa khỏi thân như hiện nay. Hơn nửa thế kỷ trước, dưới gốc cây cốc đại thụ kia bỗng lồi lên pho tượng. Vì nghĩ đó là vật thiêng nên thầy trụ trì kính cẩn mang vào chùa thờ. Ai ngờ nửa đêm thì tượng bỗng dưng rơi xuống đất, đầu lìa khỏi thân. Lời đồn rằng pho tượng không muốn rời khỏi cây cốc nên thầy trụ trì đã mang tượng ra đặt trở lại vị trí cũ.
Nhắc đến chuyện cây cốc khổng lồ, liên tưởng đến kho vàng được đồn thổi nằm dưới gốc cây này. Lời truyền rằng dưới gốc cây ngàn năm có vàng, đó là kho báu với vô số tượng vàng, ngọc ngà được canh giữ bởi những trinh nữ bị nhà quyền quý người Chàm chôn sống làm ma nhằm trấn giữ kho vàng. Ban đêm, dân trong vùng thường thấy ánh vàng sáng rực di chuyển quanh "thần mộc" và khuôn viên chùa, gọi hiện tượng thần bí ấy là "vàng đi ăn". Tiếng đồn rằng đó là hồn của những trinh nữ bị chôn sống hóa thân… Và vì niềm tin ấy nên dù đoán chắc dưới gốc cây cốc có vàng nhưng chẳng cư dân bản địa nào dám tơ tưởng đến chuyện quật đào đặng kiếm tìm kho báu.
Cái thuở mà thi sĩ Quách Tấn viết “Xứ trầm hương” đến nay đã gần 50 năm. Qua bao dâu bể, điều may mắn là "kho vàng" ẩn dưới gốc cây cốc đến nay vẫn còn hư hư thực thực, đại thụ hàng trăm năm tuổi vẫn tỏa nhánh sum sê, che mát cả vùng rộng lớn với kho báu chẳng biết có hay không nằm phía dưới, mà không bị phường lâm tặc chặt đốn, kẻ xấu bới đào. Và những pho tượng cổ ngàn năm tuổi cùng biết bao di vật của cái thuở khai sơn tạo tự đến nay vẫn được các thế hệ quý thầy truyền thừa thầy lưu giữ cẩn mật. Những những báu vật hiện có ở chùa hiện nay chỉ còn là con số khiêm tốn. Nhiều năm trước kẻ xấu đã vào chùa lấy nhiều tượng cổ quý giá…thật đáng tiếc!
Thật đúng là:
Nhất trấn bất đáo bồ đề địa
Vạn thiện đồng quy bát nhã môn…
Trí Bửu
Lược soạn theo thư tịch Chùa Hoa Tiên- Tháng 3.2014