Bìa cuốn Hoàng tử bé (2011) |
Ngày 20.10, NXB Văn hóa Văn nghệ kết hợp với cơ sở Quỳnh Na phát hành tác phẩm dịch được xem là bay bướm và truyền cảm nhất của thi sĩ Bùi Giáng:Hoàng tử bé(nguyên tác:Le Petit Princecủa nhà văn Pháp Saint Exupéry).
Sách ấn hành nhân dịp tác phẩm trên được xét chọn để trao Giải thưởng sách hay 2011 về lĩnh vực dịch thuật. Mặc dù trải qua gần 50 năm kể từ ngày xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn nhưng đến nay văn phong và thần sắc trongHoàng tử bévẫn đầy sức quyến rũ. Trước hết vì tính cách nhân bản có sức lan tỏa lạ lùng trong nguyên tác của Saint Exupéry với mấy dòng mở đầu: “Tôi xin lỗi các bé con, vì đã đề tặng cuốn sách này cho một người lớn (...) Tôi rất muốn đề tặng cho đứa bé con mà xưa kia người lớn nọ vốn đã từng là (nó) vậy. Mọi người lớn, ban sơ, đều đã từng là những bé con (nhưng ít người trong số đó ghi nhớ điều kia). Vậy tôi xin sửa chữa lời đề tặng: Gửi Léon Werth thuở ông ta còn là bé con”.
Một lẽ khác, về phía người dịch: Bùi Giáng - đã không ngần ngại hạ bút xác định: “Le Petit Princelà tác phẩm thơ mộng nhất và u uẩn nhất trong những tác phẩm của Saint Exupéry” viết về một thiên thần đi về trần gian để “dấn thân” và sau đó “chia tay bụi hồng không một lời oán hận”. Vậy tác phẩm có gì lạ mà Bùi Giáng dịch và giới thiệu trân trọng như thế. Lạ vì, trong tập sách mỏng chỉ chừng 125 trang mà đã chuyển đến bạn đọc cả “một thế giới ở ngoài trái đất”. Lạ nữa, thế giới “ở ngoài” ấy lại được kể và thể hiện bởi một hoàng tử đang “ở trong” mặt đất, trên sa mạc Sahara. Chú hoàng tử cô độc đến từ một tinh cầu xa thẳm đã gặp một phi công cũng một thân một mình đáp xuống sa mạc khi máy bay của ông ta gặp nạn, bị hỏng hóc. Thế là họ, một người lớn và một chú bé hoàng tử, đã “sống” bên nhau những thời khắc tuyệt vời và tâm cảm, nhất là chuyện chú bé thao thức vì một con cừu nào đó đã ăn mất của chú một đóa hoa hồng: “Cái điều xui ta cảm động nhất nơiHoàng tử béđang ngủ này, ấy là sự trung thành của chú đối với một đóa hoa, ấy là một hình ảnh một đóa hoa hồng vẫn sáng ngời ở trong người chú như một ngọn đèn, ngay cả khi chú ngủ... Và tôi nhận thấy chú còn mỏng manh hơn nữa. Phải bảo vệ những ngọn đèn: Một cơn gió có thể làm cho tắt mất”. Tắt mất đây không chỉ “tắt” sự sống ngoài thể xác, mà là “tắt” nguồn ánh sáng ban sơ trong tâm hồn của những người đang hiện diện trên “mặt đất trầm trọng và đau thương” này.
Lần tái bản này có in kèm những ký họa màu nước của tác giả Saint Exupéry và các chú thích của dịch giả Bùi Giáng.
Giao Hưởng
Mới đây, chúng tôi được tiếp cận một số bản thảo viết tay của thi sĩ Bùi Giáng chưa xuất bản, trong đó có hai đoản văn ngồ ngộ. Xin giới thiệu với độc giả nhân dịp kỷ niệm 14 năm ngày thi sĩ mất.
BàiÔng Trời chất vấn ông điên- rằng: “Tại sao chú mày đánh đấm con vợ của chú mày như thế?”. “Tại vì nó có lỗi”. “Có lỗi như thế nào?”. “Tôi thì hằng năm tôi tắm rửa một lần để ăn tết. Còn nó thì mỗi ngày nó mỗi tắm… tức không chịu nổi!”. “Ủa, nó tắm rửa cho sạch sẽ thơm tho có gì đâu mà gọi là tội lỗi?”. “Nhưng mà nó càng sạch sẽ thơm tho bao nhiêu, thì thiên hạ càng thấy rõ cái dơ dáy thối tha của tôi bấy nhiêu. Có phải rằng nó có ý muốn vạch rõ cái thối tha bẩn thỉu của tôi? Tôi mang mặc cảm bấy lâu nay. Còn đâu hài hòa vợ chồng tâm đầu ý hiệp chứ”. Rồi “ông điên” muốn bỏ vợ để lấy “gái sa mạc” vì “sa mạc khô khan quanh năm, đâu có nước giếng nước biển nước sông để tắm cho nhiều”. Ông Trời gật gù: “À ra thế ấy, lọ là thế kia!”…
|
Bài thứ haiMẹ ôi!,kể về cô gái 16 tuổi chửa hoang, bà mẹ thay vì phiền trách đã hân hoan reo lên: “Ồ, thế thì vạn phước đấy con ạ. Kiếp xưa có lẽ con khéo léo tu hành lắm đó, nên kiếp này mới gặp gỡ được thằng Mít (…) đến như con là đứa nghiêm trang nghiêm túc như thế mà nó chỉ la cà cày bừa trên bụng con đôi lần mà kết quả huy hoàng rực rỡ chói lòa thì đủ biết tài năng cày sâu cuốc bẫm của nó… Ha ha ha! Mẹ giao luôn cho nó cái khu vườn tược ba mẫu này để nó chăm sóc trồng dâu, trồng dừa: Ùn lên ngọn nước bốn mùa. Núi phơ phất tuyết, cổng chùa tịch liêu. Hai hàng phượng đỏ giấn liều. Đứa con gay cấn một chiều chửa hoang. Ha ha ha!!! Mẹ sắp có cháu ngoại để o bế o bồng rất mực bồng bế o o !!!”.
Đọc hai đoản văn trên hẳn có người sẽ nghĩ Bùi Giáng viết chỉ để “cà rỡn” chơi. Thật ra trong cái “cà rỡn” ấy vẫn ẩn chứa một điều gì khang khác là lạ so với những chuyện cười suông. Riêng chúng tôi, đọc hai bài trên, nghĩ mấy chữ “cổng chùa tịch liêu”, “đứa con gay cấn” và “sa mạc” là cái “chĩa ba” của một cây cổ thụ trong rừng ngôn ngữ mà Bùi Giáng trên đường ngao du đã đặt lên đó “một cách nhìn” để kể về: 1. Những “ông điên” quay cuồng theo các cặp đối trị: tốt - xấu, sạch - nhớp, khen - chê, vinh - nhục… 2. Những “đứa con gay cấn” đã rời “cổng chùa tịch liêu” để kết hôn với bọt nước, với nắng tàn, với sương mai và ánh chớp vội vàng vào mỗi chiều giông. Và thê thảm nhất là đã tự nhốt mình trong sách vở tư biện như ông từng viết: “tự nghìn năm triết học luận lý trường trại đã bóp ngột tư tưởng con người (…) nó khiến tư tưởng không thể nào bước đi thong dong trên ngã ba (…) không còn nghe ra ngôn ngữ Nguyễn Du, Shakespeare…”. (Đường đi trong rừng). Ông ca ngợi “sa mạc” - muốn tìm về “sự tĩnh lặng mênh mông, trong đó mọi năng lực, hùng tâm, dũng khí, thảy thảy tương hệ tương giao cùng rì rào hoạt động” và “im lặng vì xao xuyến dị thường” (Lời cố quận). Đó là “niềm im lặng” lên đường, tìm về nguồn cội sẵn có trong chính mình. Khi lạc lối, ông lại phải “chăn trâu” hoặc “lùa dê” để lần về lối cũ: “Trăm năm trong cõi người ta - Chăn dê bò tại ngã ba đường rừng”. Và đây nữa: “Anh lùa dê vào núi rừng mây tím. Cho dê nhảy cỡn giữa mây ngàn (…) Dê lùa anh vào đồi sim trái chín. Anh lạc đường nghe dê gọi kêu vang”.
Lúc đầu ông “nghe dê gọi”. Đến sau ông quên cả dê, quên cả trâu, quên cả bò đang gặm cỏ, mà “chỉ nghe tiếng cọ rì rào”, rồi tự hỏi: “Có hay không bò đương gặm đó? Hay là đây tiếng gió thì thào? Hay là đây tiếng suối lao xao? Không biết nữa mà cần chi biết nữa”. Ông chả cần “biết” âm thanh tiếng động xung quanh mà đã quay “cái nghe” vào sâu nơi mình. Để từ trong cái “nghe tự tánh” ấy, đã tuôn chảy ra ngoài dòng sữa của thi ca…
Giao Hưởng
Gia đình thi sĩ Bùi Giángvừa đưa chúng tôi mượn một số sách, trong đó có cuốnLời cố quận và lễ hội tháng bacủa Heidegger, do Bùi Giáng dịch và được Nhà xuất bản An Tiêm in năm 1972 tại Sài Gòn.
|
|
Chỉ riêng nhan đề cuốn sách trên đã gợi chúng tôi nghĩ đến một Bùi Giáng bước vào cuộc đời này như bước vào một “lễ hội” chưa tàn. Đọc những cuốn khác, thấy Bùi Giáng giới thiệu nhiều triết gia, như Soeren Kierkegaard được xem là “vị thủy tổ sáng lập chủ nghĩa hiện sinh. Ông là người Đan Mạch, sinh ở Copenhagen tiền bán thế kỷ 19, (…) muốn hòa mình với tâm tình bơ vơ của thời đại, ước mong đem triết học hòa vào nguồn thơ và nhạc của thăm thẳm núi rừng. (…) Kierkegaard la to lên: “Lý luận tư tưởng, không bao giờ đạt tới cái ân tình say đắm của tồn sinh. Có một cõi bờ bí huyền bát ngát của đời sống không thể nào lý luận lịch kịch đủ sức đưa ta vào. (…). Hiện sinh, là bước ra khỏi phòng tối, là không chấp thuận cái kín cổng cao tường, là chối từ cái im lìm, cái bất động của cái gì đã đạt, đã xong, đã rồi, đã đủ… Không. Sống là còn đòi hỏi thêm… thêm… Thế còn chưa đủ. Thế vẫn chưa vừa. Hôm nay phải khác hôm qua. Ngày sau không thể nào lập y như bữa trước” (Soeren Kierkegaard và cơ sở chủ nghĩa hiện sinh).
Bạn đọc trách thi sĩ Bùi Giáng tại sao bàn chuyện triết học lại cứ xen lẫn thi ca vào? Ông trả lời: “Xin thưa: đó không phải là một điều đáng trách. Theo quan niệm nhiều triết gia thời nay và thời xưa, thì “La philosophie a cessé d’être un drame, d’être une pensée, pour devenir un chant”. Triết học sau bao lần dọ dẫm tơi bời ở mọi đường quanh nẻo quẹo, cuối cùng đã không còn là một bi kịch rứt ray, một suy tư nghiêm ngặt, để trở thành một lời ca vi vu”.
Ông nhắc đến Karl Jaspers là người “muốn xiển minh cái quyền lực hiện hữu của con người bằng cái khả năng của tự do phát minh, tự do sáng tạo bằng quyền lực chọn lựa lối đi ở từng cảnh huống (…). Phải nói rằng: “tôi” trước hết, là hữu thể tự tạo mình bằng khả năng chọn lựa, bằng ý lực tung hoành vùng vẫy”. Rồi tiếp: “Kỷ niệm như đem về sương tuyết để pha in. Em chấp nhận không? Hãy cùng nhau dấn thân vào giông tố. Yêu là chết. Ngay từ đầu hãy lên đường ly biệt nhé, em. Triết lý của Jaspers là cả một con đường vũ bão. Hãy can đảm rời mái gia đình, vào trong siêu hình sa mạc se sắt để đón lấy gió võ vàng thổi lại ý phong lan. Những tờ cảo thơm mang nhiều biểu tượng; hãy nắm, hãy cầm, và đọc nhé, những ẩn ngữ nào kỳ bí sẽ minh giải cái nghĩa đời cho nhau đó, thưa em” (Thân phận con người trong triết học Karl Jaspers).
Về André Malraux, Bùi Giáng nhận định: “Qua tác phẩm ông (Malraux), ta bị đập mạnh bởi giọng nói quả quyết, hiên ngang, sống động của kinh nghiệm và qua những gì ta biết về đời ông, là một sự sáng suốt kiếm tìm một hình ảnh của con người. Bởi vì con người đã mất hình, mất bóng. Con người đã không còn níu giữ được thượng đế trong hai tay. Thì sau lúc thờ thẫn khóc than, phải tự tạo cho mình những giá trị nào để mình bám vào mà sống, mà đứng lại với đời, ở lại với lá cây, cợt cười cùng cồn cát”.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi kể ra đây câu chuyện (chuyện thực, không phải giai thoại) để minh họa thêm chân dung Bùi Giáng - một thi sĩ đã sống không phải bằng “khuôn định của triết học và luận lý”, mà luôn sống động, rực nóng như những hồn thơ cháy đỏ, lăn lóc trong gió lộng và trên đường phố cuối chiều 30 tết. Nguyên khoảng từ rằm tháng chạp trở đi, vào những năm đầu của thập niên 1990, các vị sư ở chùa Phật Đà - một ngôi chùa nhỏ nằm trong con hẻm trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, TP.HCM - thường mang hoa ra bán cạnh lễ đài Bồ tát Thích Quảng Đức để kiếm chút ít tiền hương đèn giao thừa. Một năm nọ, Bùi Giáng xuất hiện đi lui đi tới, đi qua đi lại, không mua chậu hoa nào, mà cứ chen lấn với khách, đẩy người này xô kẻ nọ để dòm quanh dưới đất. Thầy Bổn của chùa Phật Đà hỏi: “Cụ tìm gì?”. Bùi Giáng đáp: “Tìm hoa rơi”. Một lát sau, có vài bông hoa rơi xuống thật. Bùi Giáng hớn hở chạy tới lượm từng chiếc lên, ngắm nghía nâng niu. Thầy Bổn bảo: “Cụ lượm làm gì?”. Đáp: “Lượm đem về cho nó ăn tết”. Lại hỏi: “Hoa mà biết ăn tết à?”. Bùi Giáng “khai thị” rằng: “Hoa cũng như người. Người ăn cơm thì nó uống nước. Ban đêm người ngủ nó vẫn thức. Nghe thơ đây: Trong linh hồn một bông hoa/Dường như có cõi người ta đường hoàng”. Rồi ông lẳng lặng đi, mang theo những đóa hoa cuối năm vừa mới rời cành…
Giao Hưởng