Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật học và học Phật

28/09/201318:37(Xem: 3464)
Phật học và học Phật
Sakya_Muni_10b

PHẬT HỌC VÀ HỌC PHẬT


Nhụy Nguyên

Đạo Phật không phải là một tôn giáo - điều này đã được các bậc chân tu khẳng định. Phật vốn xem mình đồng đẳng như bao chúng sinh, do vậy ai theo Phật mà tôn người thành giáo chủ theo cách hiểu tôn giáo, xem như mắc lỗi vậy. Phật không cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng những lời ấy, có vậy mới mong gỡ bỏ tham sân si mạn nghi tà kiến, mới mong minh tâm kiến tánh.

Thiền sư Hắc Thủy Thừa Cảnh bên Trung Hoa có hai câu thơ tuyệt cú:

Rổng rinh vô hạn trùm trời đất
Ẩn hiện sương mù nắng Phật lên
(Quách nhiên thản đấng châu sa giới
Trước vụ tiềm dung Phật nhật huy)

Thi nhãn nằm ở “nắng Phật”, ý của ngài rõ ràng: “Đất lớn che không hết, mặt trời ấy lồ lộ khắp mọi nơi”. Phật pháp vô biên trùm khắp cõi nhân gian, không gì không bao hàm song không phải khẳng định sự cao vời tối thượng mà thấm nhuần ánh sáng đến mọi ngóc ngách tăm tối thế gian. Đạo Phật chính là phụng sự con người, phụng sự thế gian. Thế nên bảo đạo Phật chối bỏ, xa lánh, phủ nhận nhân gian là hết sức sai lạc! Xin hãy nghe lời đúc kết vàng ròng của giáo sư lỗi lạc Phương Đông Mỹ (Người thầy đầu tiêncủa đạo lão pháp sư Tịnh Không):“Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”.

Bài viết nhỏ mọn này xin phép dẫn ra một số quan điểm triết học nổi trội mang tính biện chứng cao của các học giả tầm vóc; chứ không [đủ tư cách] mong tìm thấy nhược điểm trong triết thuyết họ đưa ra (ví như có vị đạo sư chỉ vào câu “Tôi suy tư tức là tôi tồn tại” của René Descartes). Đạo Phật, và ngay cả khoa học ngày nay cũng thừa nhận: con người được cấu thành từ vật chất (thân xác, sự dung hợp của tứ đại) và phi vật chất (tâm, ý, thức...). Một hành động của thân bao giờ cũng xuất phát từ tâm [ý] rồi mới dẫn lên trí, trí sẽ phát lệnh cho chân tay miệng tạo tác. Một câu trong Đại học: “Bậc quân tử nhất định phải khiến cho ý niệm của bản thân mình được chân thành”.

Dĩ nhiên, sự đối sánh sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu như Phật không sinh ra trước những “nhân vật” nêu ra. Dựa trên sự khảo cứu của thiền sư “tam bộ nhất bái” Hư Vân, Phật sinh trước cả Khổng Tử. Quan trọng hơn, con người, nhất là những người đắc quả bây giờ phần lớn là chu trình tiếp nối các đời trước, mọi “dữ liệu” được tồn lưu ở thức thứ tám A lại da. Và, chỉ tính trong tiền kiếp này, trước Phật Thích Ca đã có 3 vị Phật xuất thế… Sau Thích Ca Mâu Ni Phật, theo kinh Thủ Lăng Nghiêm: hiện nay tuổi thọ của loài người ở trong kiếp giảm, khi giảm xuống còn 10 năm rồi lên đến 84000 tuổi, thì Phật Di Lặc sẽ xuất hiện tiếp tục củng cố và phát huy kinh điển Phật từ vô thỉ.

Trước hết cần cắt nghĩa, Đạo Phật là nhằm Tu Thân. Tu để sống tốt hơn trong kiếp này và đặc biệt hướng tới Niết bàn. Đạo Phật chính là phơi lộ chân tướng vũ trụ, về con đường giác ngộ đưa chúng sanh ra khỏi sáu nẻo luân hồi, vĩnh viễn thoát khổ. Hễ chừng nào còn trong luân hồi, cơ hội vào ba đường ác lại nhiều hơn ba nẻo thiện (vì ác tâm sở bất thiện có đến 26, tâm sở thiện chỉ 11); phần Phật thuyết về đạo hạnh làm người có thể gọi là Triết lý Nhân sinh. Con người trang bị các triết lý khác rồi mới quay trở lại trang bị triết lý nhân sinh là vòng vèo, nhiều khi lạc mất đường về và biết đâu chẳng còn thời gian? Phật nói “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”; đời biến thành câu thông dụng "Quay đầu là bờ" để chỉ người sai lầm, sớm tỉnh ngộ viết lại cuộc đời.

Ai cũng đều được sinh ta từ cha mẹ. Đạo làm người ai không trọng chữ Hiếu. Kiều bởi chữ hiếu mới bán mình vào lầu xanh. Cổ nhân dạy: “Vạn ác dâm làm đầu, trăm thiện hiếu trước tiên”. Từ Nho giáo đến đạo làm người ngày nay chữ Hiếu vẫn luôn được tính điểm cao nhất ở mỗi người. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy Hoàng hậu Vi Đề Hy (mẹ vua A Xà Thế) chánh nhân vãn sanh là Tịnh nghiệp tam phước, còn là chánh nhân của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai. Câu đầu tiên trong Tịnh nghiệp tam phước: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng”; tức chữ hiếu vẫn làm đầu.

Trong nhiều kinh Phật khác đều tôn hiếu đạo; đơn cử Địa Tạng kinhcòn được gọi với một tên khác là Hiếu kinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, một trong ba người được xếp hàng thánh nhân của thế kỷ thứ 20 (cùng với thi hào Tagore và Mahatma Gandhi) - "bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại" đã nói:"Chúng ta sanh ra và tái sanh trong vô số kiếp. Có thể mỗi chúng sanh đã từng là cha mẹ của chúng ta trong một đời này hay đời khác". KinhĐại báo phụ mẫu trọng ân: Một lần Đức Phật dừng lại bên đống xương khô và lạy, đệ tử hỏi nguyên do Ngài nói đây là cha mẹ ta các đời trước; rồi giảng, xương to và trắng là của người cha, xương nhỏ và thâm là của mẹ bởi đã vắt kiệt sữa và máu cho con, lại phải làm việc vất vả bội phần... Đọc kinh này ai không nước mắt thấm vào trong!

Người đời thấy người tu rời đại gia đình, rời cha mẹ lên chùa hay ở riêng tịnh thất cho là... bất hiếu. Người tu họ hiểu nếu không thành tựu trong sự nghiệp tu tập, sẽ không thể giúp ai có được lại thân người ở kiếp sau nói chi về nước Phật. Phần lớn cha mẹ đều để lại cho con gia sản [khổng lồ], nhưng khi qua cõi Thân trung ấm (bardo) chịu nghiệp quả từ việc kiếm số tiền đó cho con, mong con trích ra một vài phần trăm làm thiện hồi hướng cho mình - là điều hoang tưởng. Bởi, con đâu có học Phật, đâu biết cha mẹ cần con hồi hướng công đức chứ không phải là đồ hàng mã! Đạo Nho được đề cao xưa nay cũng nhờ một chữ Hiếu to đùng treo nơi trịnh trọng mỗi gia thất.

Tinh thần hiếu đễấy nếu soi vào Đạo Phật e khiêm tốn hơn nhiều. Ca dao từng đúc kết từ Đạo Phật: “Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”. Chẳng những thờ, kính, đạo Phật còn có hẳn mùa Vu lan báo hiếu. Thờ, kính mới chỉ ở đời này, mà chưa chắc đã trọn. Đạo Phật còn thôi thúc mỗi người tu tinh tấn hơn; nếu mình không giải thoát thì đừng mong chi báo hiếu mẹ cha ở các cõi thấp hơn cõi người. Hiếu trần ai mới là hiếu ở cấp độ thấp. Hiếu trần ai với thứ vật chất thô lậu thảy gần như vô nghĩa ở bên kia núi. Nhiều người bây giờ lớn lên trôi tuột theo dòng đời kiếm tiền dung dưỡng xác thân; tưởng về xây cho cha mẹ ngôi nhà lớn, thuê người cung phụng hàng ngày của ngon vật lạ - là hiếu. Thử nhìn nhận, một người mang danh đạo đức song đi đâu cũng bị người đời chửi mắng (tất nhiên là chửi mắng có lý do chính đáng), ấy chẳng phải Đại Bất Hiếu?

Thậm chí còn bất nghĩa với tổ tông dòng tộc. Ngược lại, một người sống chân thành, luôn giúp đỡ động viên mọi người không phân biệt thân sơ..., chẳng phải cha mẹ nở mày nở mặt, chẳng phải là Đại Hiếu. Mục Kiền Liên - người đệ tử đắc quả, thần thông bậc nhất của Đấng Thế Tôn nhờ nương vào mười phương chư tăng nhất tâm chú nguyện mới cứu mẹ thoát cảnh bưng chậu máu đứng trên bàn chông dưới địa ngục. Nên mới có câu niệm: “Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát ma ha tát”.

Để có Hiếu và Đạo, ngoài “nhân chi sơ tính bổn thiện”, đòi hỏi mỗi người phải tu, tức thanh tẩy thân tâm. Trước hết lạm bàn đến câu nói của Mạnh Tử ở phương diện Đạo Phật. Tam tự kinh:“Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Pháp ngữ của Thiền sư Sùng Sơn đời thứ 78 từ Đức Phật Thích Ca (01.08.1927 - 30.11. 2004): “Thân các bạn khác nhau, nhưng tâm các bạn giống nhau.” Kinh Phật thuyết: “Viên mãn bồ đề vi vô sở đắc”, nghĩa là tất cả có trong tự tánh; tu “đơn giản” chỉ là khôi phục [nới rộng] lượng tâm vốn dĩ. Hay: “Chúng sanh và Phật vốn không hai”; hay: “Tất cả chúng sanh vốn là Phật” (Kinh Hoa Nghiêm); bộ kinh quan trọn nhất trong vườn kinh điển Đại Thừa là Pháp Hoa cũng viết: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” (Chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật).

Một đứa trẻ sinh ra tâm như tờ giấy trắng. Lúc tích lũy nghiệpchưa thức giấc, nếu gặp môi trường tốt (lớn lên ở chùa từ nhỏ hoặc trong gia đình Phật tử) Phật tính sẽ nẩy mầm. Còn gặp môi trường không tốt, các chủng tử sẽ bám rễ vào vỏ bọc vô minh. Trẻ em thời nay mới vài tuổi đầu đã không thể rời máy tính và thích chơi di động, tâm loạn động với muôn trò trong đó gồm cả vũ khí hiện đại tối tân. Mười đứa trẻ đang ăn thứ gì, ta thử ngửa tay xin chúng miếng nhỏ, bao đứa sẽ cho và bao đứa khư khư giữ chặt và hét lên khi ta nhón tay vào? Có thể những kiểu đòi như vậy rất bình thường, nhưng nếu so với bàn cân của Đạo thì thật nghiêm trọng. Nếu cha mẹ từ nhỏ dạy trẻ chothì lớn lên, trừ hao chí ít chúng cũng không lấy của ai. Nhưng mấy cha mẹ kiên trì dạy con như vậy khi chính họ lại muốn nhận. Hơn thế do sự chậm lụt sở kiến mà một đứa con khởi ý muốn lên chùa, họ nghĩ mất con bèn giằng lại bằng được. Tột thật muôn trùng!

Hoa Nghiêm kinh chốt lại vấn đề này: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai”; “Như tâm, Phật cũng vậy - Như Phật, chúng sanh đồng - Tâm, Phật, và chúng sanh - Cả ba không sai khác”. Điều cốt yếu là mạch ngầm ấy có được khơi dòng. Một đứa trẻ lên ba đã thấy chúng bắt đầu nhiễm ô, huống hồ ba chục tuổi. Người tu là người dùng xà phòng dùng bàn chải đánh tẩy vết nhơ ăn sâu cho đến khi tâm nguyên sơ trong trắng như… đứa trẻ mới hầu mong thấy tánh. Trong Đạo Đức kinhLão Tử luận: “Trở về ngây thơ, đức vĩnh viễn không sai lạc”. Nước luôn được lấy để minh thị về Phật và chúng sanh không hai khác. Chân tâm tự tánh là Phật (nước trong); phàm là mê lầm chấp trước (nước đục). Nước nào cũng có thể lọc nên trong. Điều quan trọng là người ta có muốn/chịu lọc, bằng cách hành theo đúng lời Phật dạy mà cụ thể là Thập Thiện.

Thời đại bây giờ để sống tốt phải vùng vẫy, phải thiệt thòi, khổ và khiêm ái. Ấy là tu thân. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”. (Từ vua đến dân đều phải lấy việc tu thân làm gốc). Phật giảng: “Thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân”. Ai ai đều tự tu để cứu mình. Em của Phật là ngài A Nan cũng như bao đồ môn khác, việc tu tập phải tự nương ở chính mình. Trên dòng cuồng lưu của nghiệp thức, nếu con người không biết đời thọ khổ, không tin tâm vô thường, pháp vô ngã, sẽ bị cuốn trôi đến tận cuối nguồn dâu bể. Cuộc đời - dòng chảy không ngừng của nghiệp thức ấy hòa vào máu huyết căn mạng đời người.

Đức Phật nói: “Dòng nước sông Hằng phút trước và phút sau đã khác nhau. Ta của ngày hôm qua đã khác với ta của ngày hôm nay”; thật gần với một câu được xếp hàng biện chứng kinh điển của Héraclitos: "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông". Tu thân là bơi ngược dòng nghiệp thức, chỉ cần lơ là buông lơi tỉnh thức, công lao sẽ nhảy về không. Ngạn ngữ Pháp: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng”. “Ngủ quên”; trong giấc thiền có từ gần nghĩa là “hôn trầm”. Nên cần phải “mở to mắt ra”. Đạt được chút Phật quả nhỏ xíu, đã tưởng mình bậc giác ngộ tối thượng. Hư Vân thiền sư từng căn dặn người tham thiền: “Ngay cả thấy Phật Thích Ca đến dùng tay xoa đầu thọ ký, quý vị cũng chớ để ý đến, hay khởi tâm vui mừng”. “Không khởi tâm thánh, tức gọi là cảnh giới lành” (Kinh Lăng Nghiêm).

Nhân sinh triết học của Lão Tử khuyên người đời nên “đem thân vì thiên hạ”. Người tu chân chính trong cõi Phật không ai tu cho mình cả. Ước nguyện của họ chính là Đắc Đạo - Tái Sinh - Giảng Pháp, vòng tròn ấy liên tục từ kiếp này đến kiếp khác, như Đức Đạt Lai Lạt Ma với 14 lần tái sinh và thật nhiều Bồ tát nữa. Phật Thích Ca cũng từng thành Phật từ vô thỉ. Từ Bồ tát lên Phật không xa, song họ vẫn muốn là Bồ tát để trở lại cõi nhân sanh hóa độ. Phật Địa Tạng giương cao tấm bảng: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Địa ngục chưa trống, tôi thề không thành Phật).

Vậy để thấy, người tu giả như không giúp được gì ít ra cũng không đụng chạm đến quyền lợi của ai, không làm phiền ai. Phật dặn các Thiện nam tử trong lúc giảng Kinh Vô Tự Bảo Kiếp: “Ðiều gì mà Bồ tát không muốn đến với mình chớ nên bảo người khác làm”. Khổng Tử: “Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn). Những điều mình không muốn ở đây là sự chán ghét, khó chịu hiển nhiên và có tính phổ quát. Một bữa tiệc thịnh soạn thì khoai, sắn, cháo trắng là những món mình và người khác không ưa.

Gần hơn, trong bữa cơm có vài món (dẫu ngon) song đã ngán, ta mới nảy ý bưng qua cho hàng xóm nghèo hèn để lấy lòng. Thực tế hành động này tạo nghiệp. Lý ra nếu cho kiểu ấy, nhà giàu kia phải cảm ơn người nghèo thay vì tự đắc mình người tốt. Miếng ăn ấy đến chiều sẽ phải đổ cho chó. Còn nếu không có chó nhà giàu đổ vào hố rác - vô tình gây nghiệp… Phật dặn: “Các vị nên biết điều không muốn đến với mình, chớ nên cho người khác”. Là con của Phật sao có thể đẩy khó khăn về người khác; ngược lại nhận về mình cái dở, cái khó, cái nặng nề ô uế. Phật Thích Ca Mâu Ni độ người đầu tiên là Kiều Trần Như vốn đời trước đã “lăng trì” mình, để… trả ơn.

Nhiều người ra đường gặp người dưng giúp đỡ còn hơn cả anh em ruột rà, mà không hay ấy là ân nhân đời trước của mình. Nếu biết khiêm nhu, chớ khoe khoang việc thiện (ngoại trừ lấy để làm gương), thì phước của họ cấp số nhân. Quá coi trọng phần vật chất trong mình sẽ bỏ quên phần phi vật chất tinh túy. Cõi trần được tạo dựng trên nền vật chất, con người bởi thế chỉ tin những gì hiện hữu. Gửi một trăm ngàn vào ngân hàng sẽ còn đó, cũng số tiền ấy “gửi” vào việc thiện chúng ta ngỡ mất, thật ra nó còn. Việc khoa học sáng chế ra máy thu âm và hình ảnh quá khứ đã phần nào cho thấy không gì biến mất khỏi không gian này. Nghiệp thức là chiếc camera sẽ ghi lại tất cả ý nghĩ và hành động của mỗi người để từ đó cấp cho họ thân gì ở kiếp khác.

Giêsus trong bài giảng trên núi dạy: “Khi con làm phúc của gì, chớ cho tay trái biết việc tay phải làm”. Sự khoe khoang hãnh diện trước thiên hạ sẽ trừ phần trăm số đức ta làm được. Người đời thường sợ thiên hạ không biết đến thiện nghiệp của mình nên mới vậy, đó là lối suy nghĩ “khủng hoảng thừa”. Kinh Hoa Nghiêm chép, đại ý, nếu các quốc độ đều nghiền ra bụi thì Bồ tát cũng đếm được số bụi đó. Chính vậy trong Kinh Dịch, quẻ Khiêm được xếp tốt nhất, và bao giờ cũng thuộc hàng đầu đối với người muốn nghiên cứu nó. Nhẫn được đề cao trong nghiệp tu. Người có sẵn Khiêm từ nhỏ là hiếm; người sơ cơ phải tu Khiêm, thì phải bước qua Nhẫn. Chữ Nhẫn ở trên có bộ Đao, dưới là Tâm; động niệm [ác] thì dao rơi xuống xuyên tim! Nhẫn trong Đạo Phật có thể ví như hạnh của Đất (hiền như đất), người ta có thể dội nước sạch và cũng có kẻ hắt nước bẩn vào.

****

Học trò có lần hỏi chết là gì? Khổng Tử dạy: “Chưa hiểu cuộc sống làm sao hiểu được cái chết”. Câu này nếu bàn sâu, là một hạn chế. Bàn nghĩa gần là ưu việt. Phương ngữ truyền: “Biết có sống đặng đến mai mà để củ khoai đến mốt”. Kinh Phật thường nói về luân hồi kiếp và các cõi thánh cao vời, tuy nhiên điều trọng yếu để tu là luôn an trú trong hiện tại. Ai tu mà tưởng về quá khứ vọng về vị lai thường dễ lạc vào ma đạo. Người tu Thiền hay Tịnh độ, đích vẫn là giữ tâm tịch tịnh, không phóng tạp niệm ra ngoài hơi thở mới hầu mong thành chánh quả.

Tận kiếp này ai rồi cũng phải qua con sông rộng, ở đấy không một con đò nào cũng không ai đủ sức bơi, vấn đề là phải chuẩn bị một cái phao. Chọn trong những pháp môn đã được Phật truyền giảng, xem điều kiện và duyên mình hợp với Mật, Thiền hay Tịnh độ... Tu là từng ngày một ta bơm khí vào phao; phao căng thì cái chết trở nên nhẹ tựa lông hồng. Thêm nữa là Đức. Đức như “tiền”; nếu luôn sẵn tiền trong túi thì chẳng ai còn lo dạt về đâu. Dĩ nhiên nếu phải rời kiếp này, tiền là rác; Đức mới là giấy thông hành. Đạo Phật rốt ráo và đầy biện chứng giúp mỗi người có thể chuẩn bị chỗ đứng cho mình ở đời sau - điều không một đạo hay tôn giáo nào đầy đủ và cặn kẽ hơn.

Đạo Phật đối với đời này, nó chỉnh lại toàn bộ thân tâm kiếp người mà bất cứ đạo học nào cũng chỉ là nội hàm. Nếu đi đến khẳng định điều này ắt phải nhờ đến công lao của một Viện. Tôi là kẻ sơ cơ mạt học, đọc Phật mơ hồ cảm nhận: Tâm bao giờ cũng cao hơn Trí. Trí là thuyền để vượt sông ô trược cập bờ tâm nhiên. Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nhắc đến quả vị Vô Học tức đoạn trừ vô minh đạt tối thượng Bát nhã trí huệ, hoàn toàn giải thoát. Công án Thiền quan trọng nhất trong Tam bảo chắc chắn là Ngón tay chỉ trăng. Thiểu trí dĩ nhiên khó tiếp cận tri thức, nhưng qua sông nhất khoát phải dìm thuyền.

Nguồn: thuvienhoasen.org



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 684)
Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ: "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.
09/09/2023(Xem: 1138)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 2173)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 1893)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 1894)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 2874)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 5651)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
17/11/2021(Xem: 19391)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10099)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 4360)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567