Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô minh trong cõi Ta Bà

18/09/201307:43(Xem: 4095)
Vô minh trong cõi Ta Bà
hoa_sen (21)
VÔ MINH
TRONG CÕI TA BÀ...

Nhụy Nguyên

Không nhiều người tin, nhưng trước nền văn minh chưa đạt tới “viên mãn” của Trái đất này, có nền văn minh khác đạt đến cực thịnh và đã tàn lụy. Chiểu theo chu trình phát triển vũ trụ thì điều đó thường hằng diễn ra liên tục trong tam giới. Bây giờ ngành khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật minh chứng cho một trình độ siêu việt, có niên đại sau khi trái đất hình thành. Nhiều nữa nền văn minh đã là sự nuối tiếc khôn nguôi của nhân loại. Quy cho cùng, văn minh là do con người trong tiến trình can dự vào thiên nhiên đã được sắp đặt sẵn tạo nên. Một thế giới yên bình và trường tồn chỉ có thể tôn trọng và nương tựa vào thiên nhiên. Từ sông núi biển hồ đến những tòa thành hay đền tháp, hễ nó có trước lúc trái đất hình thành thì nhất định phải được tôn trọng, phải được giữ ở mức độ nguyên trạng nhất. Nhưng sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đang hành xử ngược lại. Nghĩa là chúng ta đã thực sự rút ngắn tuổi thọ của hành tinh xanh này. Người tu là người biết dựa vào tất cả những gì tạo hóa đã ban, biết tập đi trên con đường cũ hàng trăm ngàn năm trước Phật đã vạch mà nay ít nhiều bị vùi lấp bởi sản phẩm công nghiệp hóa (kể cả rác do người máy thải ra).

Chính vậy thời nay, người tu xem như đi ngược lại với dòng đời cuồn cuộn chảy như một cơn lốc mang bộ mặt giận dữ của nước (mà thực tế là xuôi). Người tu không nuối tiếc những thành phố cực thịnh bão cát vùi lấp, không tiếc nuối một con thuyền sử sách ghi lại là chở đầy lụa là châu báu đã chìm nghỉm dưới đáy đại dương nay vẫn chưa dấu vết. Người tu không muốn gặp lại tứ đại mỹ nhân đã hóa thành cát bụi, thành một dạng vật chất vi quan không nhìn thấy. Người tu chỉ tiếc những ai đã rời bỏ thế gian từng vạch đường cho nhân loại trở về với bản chất trống rỗng của mình để không còn phải bám vào vòng quay luân hồi trước lúc bị hất xuống tầng sâu địa ngục.

Thật ra địa ngục có từ xa xưa, khi người nô lệ bị đối xử hơn loài súc vật nhơ nhuốc, bệnh hoạn, cần xa lánh ruồng rẩy nhất; địa ngục tồn tại trong xã hội thời trung cổ; và địa ngục vẫn còn tồi tại đâu đó trên mặt đất chúng ta đang đứng, đang ca hát nhảy múa, đang sung sướng đến điên rồ mà cạnh bên vẫn có người tột cùng đau đớn, cầu xin sự chết cứu rỗi nhưng vô vọng! Niềm hạnh phúc và nỗi thống khổ là hai mặt khác biệt đối với người thường. Với những ai đã chứng ngộ, nó chỉ là một. Một gã keo kiệt phải cho ai đó phần của cải thì dằn vặt khổ sở; còn với một cao tăng, cũng hành động cho của ấy, lại chính là niềm ân phước dành cho bản thân. Vậy nguyên nhân do đâu. Ấy là Tâm. Tất cả đều do Tâm chưa sáng, chưa tịnh. Tâm điều khiển chứ không phải trí não như tôi vẫn nhầm tưởng. Một bộ não uyên bác cũng có thể sinh ra hành động thấp hèn, nhưng tuyệt nhiên không niệm độc nào nhận sự sai khiến từ Tâm đã ngộ đạo. Do vậy càng sử dụng bộ não tôi càng lệch tần số với thế giới tâm linh.

Sự vô minh, đúng là lớp màng che mờ tầm mắt nhìn vào thế giới thực. Từ đó cho mình là to nhất cao nhất. Khoa học thời nay cũng đã thừa nhận trái đất chỉ là một hạt cát của vũ trụ, vậy mà thật nhiều bộ óc vĩ đại của nhân loại vẫn lấy con người là trung tâm của vũ trụ. Sự ngạo mạn khiến một số nhà này nhà nọ dùng kính thiên văn khuếch đại nhìn bốn phương và đưa ra kết luận ngon ơ: Không hề thấy thượng đế đâu cả! Ở Tây Tạng, những nhà tu hành chân chính không hề dám vung tay quá trán, vì họ biết trên đầu mình là thần thánh. Đến đây tôi chợt hình dung tới đoàn các nhà khoa học hàng đầu của Hoàng gia Anh từng thị sát miền đất thánh trong chuyến Hành trình về phương đông. Những gì mà họ tai nghe mắt thấy đã làm chấn động châu Âu một thời.

Nhưng dường như ai từng thấm đạo pháp vẫn thật mau quên những gì khoa học chưa và không chứng minh được. Với thế giới trần tục, tôi chỉ mong rằng đến một ngày, khoa học sẽ chế tạo ra một cái kính, ai đeo vào là nhìn thấy linh hồn, nhìn thấy được thế giới bên kia (đang tồn tại cùng chúng ta). Còn đối với người Tu thì điều đó không cần thiết. Những vị đắc đạo đều có thần thông mà họ "không biết"; cũng giống như một người thường luôn có súng bên mình mà chẳng bao giờ dùng đến. Điều đó trả lời câu hỏi vì sao Mục Kiền Liên - một đệ tử số một về thần thông của Thích Ca lại chịu đánh đến chết; Đạt Ma mấy lần bị đầu độc; Chúa Giêsu dang tay nhận đóng đinh trên cây Thập tự; Đức Phật thì “hòa mình” vào quy luật sinh tử dạy bài học cuối cùng: ngay cả xác thân cũng chẳng nghĩa lý gì để mang theo.

Người trần hết thảy đều là những con nợ. Nếu ai sống dài sống dai quá lắm chỉ vài trăm năm, bằng cái nháy mắt nơi thượng giới. Ngắn vậy mà hầu như ai cũng quên món nợ mình chưa trả, trong lúc lại muốn chắp cánh bay vào một cõi khác thuần tịnh hơn. Những lỗi lầm từ quá khứ của con người, chỉ riêng kiếp này đã quá lớn, chứ đừng nói kiếp trước, hàng ức kiếp trước mà người trần mắt thịt không được phép biết. Tôi vẫn từng tâm niệm, kiếp này đội lốt người đã quá may mắn rồi. “Thượng đế” cấp cho thân người là để Tu, để trở về với uyên nguyên thế giới, chỉ vậy. Cõi trần này chỉ là cõi tạm.

Khi đã “ngộ” ra điều đó, người ta cũng chưa chắc đã Tu. Nếu Tu thử hỏi mấy ai… xuống núi. Do bởi cõi trần tạm bợ. Nên tôi cũng đã sống nháp(chữ Nguyễn Khắc Thạch). Chỉ Tu mới thực. Tu là chỗ dựa duy nhất ở mỗi người. Vậy nên, ngôi nhà chúng ta đổ bao tiền bạc để làm một cái móng thật chắc, không là cái gì ghê gớm trong cuộc đời. Nó có cao sang đến mấy thì cũng chỉ là chỗ che mưa nắng; chỉ quan trọng ở chỗ: có một nơi thanh tịnh để thiền định, để đọc kinh và sách thánh hiền giá rẻ nằm lăn lóc ở những quầy sách cũ. Và gia đình bé mọn mỗi người cũng chỉ là tạm.

Tất nhiên, điều đó cũng gần như vô nghĩa nốt. Tu là một quá trình rũ bỏ tất cả. Rượu bia nhậu nhẹt đã trở thành một thứ ma tuý mà chỉ những ai buộc phải chọn lựa giữa sự sống và cái chết (bệnh nặng chẳng hạn) mới chịu từ bỏ. Rồi đến thuốc lá, sơn hào hải vị, của ngon vật lạ trần thế... Mà khẩu phần của người tu đơn thuần rau cỏ, sạch hơn chứ không mấy sang hơn “khẩu phần” của vật. Loài người chỉ cao phước hơn loài vật chút xíu thôi. Cuối năm ngoái, tổ chức Peta đã bày 4 chiếc khay lớn đựng 4 người trần truồng nằm gọn, bọc ni lông như đồ món trong tủ lạnh siêu thị, đề “human meat”. Đấy là hình ảnh gây sốc bởi “dám” nhắc nhở: con người cũng là động vật! Nhưng tôi đã vô tâm. Vô tâm đến độc ác khi giết thịt động vật bậc thấp để thoả mãn những giác quan của mình, để nuôi dưỡng xác phàm thô thiển! Càng giết chóc, càng ăn thịt, nghiệp lực càng chồng chất. Sự vô minh dẫn đến hành động sai trái mà tôi đúng hoặc từng cho đúng. Một công trình khoa học uy tín chứng minh, răng và bộ phận tiêu hóa của người rất gần với thỏ, chỉ nên ăn rau cỏ. Giờ đây thì cá nhân tôi cũng đã đi quá xa với bổn phận làm người. Mấu chốt ở chỗ: tôi chắc rằng, chết là hết!

Không ai muốn kéo dài cuộc đời của mình trong sự khổ não. Cũng chẳng ai muốn rút ngắn cuộc đời trong giàu sang. Nhưng nếu tôi muốn tiêu hủy sự sống thông qua chu trình tận hưởng, thì tạm hiểu mình đã chết trước đó lâu lắm rồi.

Ở trên tôi có liếc qua địa ngục, bây giờ xin nhìn thẳng vào thiên đường. Địa ngục có tồn tại trên trái đất này, thiên đường cũng vậy. Thiên đường của người trần tục là một cuộc sống tràn đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân đều có bàn tay khác nâng đỡ, là cuộc phiêu du trên cánh đồng dục vọng thẳng cánh cò bay, là niềm khát khao những nấc thang danh vọng tưởng sẽ thấu trời nếu tuổi thọ được nối thêm vài kiếp. Còn đối với người tu, thiên đường vụt hiện khi dòng suối chảy tràn, khi đài nước phun trào trong tâm mà không hề một hạt bụi bắn vào mặt người ngang qua trong giờ khắc nhập định. Thiên đường bung nở trong mỗi hình hài bất động luôn mang khuôn mặt thánh thiện, thuần khiết. Thiên đường cũng theo bước chân hành thiền; thiên đường có trong mọi hành động, ý nghĩ, tâm thái khi người tu tan vào bể khổ nhân thế. Thiên đường cũng òa đến đúng thời điểm bất kỳ ai đó hân hoan trong thiện nghiệp. Người tu có (như không) tồn tại hai thiên đường kể trên. Người trần thiên đường chỉ một.

Không thể so sánh một ngọn núi với ụ đất, song tôi cũng mạn phép nhắc lại. Xưa kia xứ Ấn có một Hoàng tử đã che mắt không nhìn ngai vàng chói lóa để lần theo con đường giải thoát bi đát hơn một gã hành khất. Ở Việt Nam hơn ngàn năm sau cũng có vị vua nhường lại cuộc sống không thiếu thứ gì lên núi nương mình dưới ánh hào quang Đức Phật. Hiếm ai từng đi qua hai thiên đường như vậy, và nhận ra thiên đường nào là thật, thiên đường nào là ảo. Mỗi thời mỗi khác, xã hội nhân loại đang biến đổi lệch xa xưa kia, càng ngày càng li viễn với chân lý của vũ trụ (chứ không phải chân lý của trái đất này). Một cục vàng ở trong bụi cũng bị moi móc (đôi khi ai đó còn xới tung mồ mả) tìm cho ra, còn Phật Pháp ở trước mắt là châu ngọc thì không nhiều người để mắt.

Nói đúng hơn, người nhìn thấy là người có duyên với Phật, tại những kiếp trước đã chánh niệm hành pháp. Tu là một khái niệm chung cho tất cả người muốn trở lại nơi tự mình lưu đày rồi lạc lối. Ngay những người Tu, ai bảo không lẫn lộn lối về? Nếu năm mươi người cùng hướng về Tây Trúc thì con đường đó vẫn là sự độc hành của một trăm dấu chân không trùng khớp. Và nếu ai đó vén được bức màn vô minh, cũng xem như đã nhìn thấy miền cực lạc dẫu còn xa vời giữa mây khói mong manh./.

Nhụy Nguyên
Nguồn: thuvienhoasen.org
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/06/2024(Xem: 844)
Đọc tụng Chú Đại Bi chẳng phải để cầu phước mà nương theo oai lực của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát để tạo an vui lợi lạc cho đời. Do đó, theo học hỏi riêng tư: -Khi đến chùa, với tâm Đại Bi bạn sẽ không thấy ai là Phật tử thông minh, ai là Phật tử ngu độn. Bạn sẽ không thấy ai là Phật tử giàu sang, ai là Phật tử nghèo hèn. Bạn sẽ không thấy ai đẹp mà cũng chẳng thấy ai xấu. Bạn nhớ lời Phật dạy trong Kinh Viên Giác, “Không kính người trì giới, không ghét người phá giới, không trọng người học lâu, không khinh người mới học. Vì sao vậy? Tất cả là tính giác. Ví như con mắt sáng, thấy rõ cảnh trước mắt. Cái sáng ấy tròn khắp, không có yêu, không có ghét.”
01/10/2023(Xem: 1202)
Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ: "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.
09/09/2023(Xem: 1918)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 2789)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 2326)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 2446)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 3453)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 7704)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
17/11/2021(Xem: 23779)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 12785)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com