Bấy giờ là năm thứ 5 sau ngày thành đạo, đức Phật về an cư tại tu viện Trùng-Các trong rừng Đại-Lâm, ngoại ô thành Tì-Xá-Li.
Một ngày nọ sau mùa an cư, khi đức Phật đang an trụ trong cảnh giới Niết bàn tịch tĩnh, thì bỗng nhiên lòng phát sinh một nỗi niềm bi thương kỳ lạ. "Chắc là phụ vương đang lâm trọng bệnh, sắp băng hà !" Ngài nghĩ thế.
Quả đúng như vậy. Chẳng bao lâu, có sứ giả của vua Tịnh Phạn là hoàng thân Ma Ha Nam, từ kinh thành Ca-tì-la-vệ đến tu viện, xin yết kiến đức Phật, thưa rằng, đức vua bệnh tình nghiêm trọng, sắp từ trần, rất mong được trông thấy đức Thế Tôn lần chót !
Được tin khẩn cấp ấy, không dám chậm trễ, Ngài liền dẫn theo Nan Đà, A Nan và La Hầu La, tức tốc cùng sứ giả trở về thành Ca-tì-la-vệ.
Vua Tịnh Phạn đang nằm trên giường ngự trong tẩm điện. Hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, công chúa Da Du Đà La, các quan đại thần văn võ, tất cả cung nữ đều có mặt đông đủ. Mặc dù bệnh tình đã rất trầm trọng, nhưng tinh thần đức vua vẫn còn tỉnh táo. Thấy đức Phật về đến, đức vua liền nở nụ cười hoan hỉ, nét mặt tươi tỉnh hẳn lên. Vua từ từ đưa tay ra, đức Phật ôm lấy cánh tay của vua và ngồi xuống bên giường ngự. Sau một khoảnh khắc yên lặng, đức Phật đã nói bài pháp để khai thị cho đức vua về sự kết hợp rồi lại tan rã, rồi lại kết hợp, rồi lại tan rã... của tứ đại. Ẩn sâu trong đôi mắt đức Phật, người ta thấy được niềm thương cảm vô biên của Người đối với bậc sinh thành. Nan Đà thì đã nấc lên thành tiếng, A Nan và La Hầu La đều đã đầm đìa nước mắt, các quan và cung nữ thì khóc lóc vô cùng thảm thiết.
Nhưng đức vua mỉm cười bảo : "Các ngươi không được khóc lóc thảm thiết như thế ! Đức Thế Tôn đã từng dạy, tất cả sự vật là vô thường. Hiện tại ta cảm thấy đã đạt được hạnh phúc chân thật. Thái tử yêu quí của ta ngày trước, nay đã thành tựu được quả vị Phật-đà tối tôn quí trong khắp các cõi Trời, Người. Người đã đạt được bản nguyện rộng lớn trải từ muôn ngàn kiếp trước. Ta không những rất được vinh dự, mà còn hưởng được trạng thái vô cùng an lạc do thực tập lời dạy của Người. Trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời hôm nay, ta vẫn còn được diễm phúc trông thấy đức Thế Tôn, khác nào như ta được trông thấy ánh đại quang minh trước khi nhắm mắt !"
Mọi người đều im lặng lắng nghe, vì ai cũng hiểu rằng, đây là những lời nói vô cùng chân thành, sáng suốt, và thật quan trọng của một người trước phút lìa đời. Không khí trong tẩm điện trở nên tĩnh lặng, trang nghiêm dị thường. Đức vua nói xong, từ từ chắp hai tay lên ngực, nhờ Phật cử người kế vị mình. Đức Phật đã tiến cử hoàng thân Ma Ha Nam nối ngôi chấp chính, và hứa sẽ giúp đỡ cho vị tân vương an định mọi việc. Đức vua mỉm cười mãn nguyện, nhìn đức Phật và mọi người thân tín trước mặt lần chót, rồi an nhiên nhắm mắt lìa trần. Năm ấy đức vua được 82 tuổi. Hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, công chúa Da Du Đà La, các quan và cung nữ lại bật khóc thành tiếng, thương tiếc một vị quốc vương tài đức toàn vẹn hiếm có trên đời.
Đức Phật đứng dậy, đặt hai tay của đức vua xuôi thuận ngay ngắn trở lại, ra hiệu cho mọi người nín khóc để chú tâm hộ niệm cho đức vua.
Di thể của vua được tắm rửa bằng dầu thơm, và liệm bằng các loại gấm vóc sang quí nhất. Kim quan của đức vua được gắn lên các loại ngọc thạch quí giá, đặt ngay chính giữa đại điện, có các tấm trướng trân châu treo chung quanh. Hoa tươi đủ màu được rải khắp nơi. Đức Phật và Đại đức Nan Đà đứng hầu hai bên trước kim quan; hai Đại đức A Nan và La Hầu La đứng hầu 2 bên sau kim quan. Lễ trà tì dự định sẽ cử hành 7 ngày sau.
Đêm cuối cùng trước ngày động quan, Đại đức Nan Đà bạch Phật : "Bạch đức Thế Tôn ! sáng mai động quan, kính xin Thế Tôn cho phép con được khiêng kim quan của phụ vương."
Hai Đại đức A Nan và La Hầu La nghe vậy, cũng đồng xin đức Phật được cùng khiêng kim quan. Đức Phật hứa khả : "Tốt lắm ! Như Lai cũng sẽ khiêng kim quan cùng với quí thầy và La Hầu La."
Nhân dân toàn quốc nghe tin vua Tịnh Phạn băng hà, đều vô cùng cảm xúc, thương tiếc bùi ngùi. Dân chúng trong thành Ca-tì-la-vệ, nghe nói chính đức Phật sẽ cùng với quí vị Đại đức vương tử vương tôn khiêng kim quan đức vua từ hoàng cung đi đến nơi trà tì, thì lại càng cảm động. Mới sáng tinh sương, họ đã lũ lượt kéo nhau đến cửa hoàng cung, tự động sắp xếp nhau đứng thành hàng dài hai bên đường, từ hoàng cung ra đến hỏa đàn; khi kim quan di chuyển tới trước mặt là họ quì xuống khóc lạy. Sau đó, họ tháp tùng theo sau kim quan, ra đứng quanh hỏa đàn để dự lễ trà tì.
Khi kim quan đã ra đến địa điểm trà tì, nhiều vị hoàng thân và các quan cùng phụ với đức Phật và chư vị Đại đức, đỡ kim quan đặt trên hỏa đàn. Đức Phật đi nhiễu ba vòng quanh hỏa đàn, rồi nói một bài pháp về bốn cảnh khổ sinh già bệnh chết, khuyên mọi người phát tâm tu tỉnh, không chìm đắm trong sự đam mê ngũ dục. Sau khi nói bài pháp ngắn gọn, đức Phật đã tự tay châm lửa cho hỏa đàn. Ngọn lửa bùng cháy phừng phực, có tiếng chiêng tiếng trống hòa lẫn với tiếng tụng kinh hộ niệm của chư Tăng; tất cả thần dân đều quì lạy, vừa thương tiếc một bậc quân vương đức độ, vừa kính mộ đấng Đạo Sư của cả trời người mà vẫn giữ trọn đạo hiếu với đấng sinh thành.
Tang lễ của vua Tịnh Phạn đã được tổ chức vô cùng trang nghiêm trọng thể. Nhân dịp này, theo lời dạy của đức Phật, hoàng gia đã tổ chức một cuộc phát chẩn thật qui mô để cứu tế những người nghèo khó./.