CHƯƠNG 7: CHƯ THÁNH, CÁC VỊ TỒ
1- Phật A-Di-Đà
2- Quán-Thế-Âm
3- Phật Di-Lặc
4- Phật Dược-Sư
5- Ngài Văn-Thù
6- Ngài Phổ-Hiền
7- Ngài Ca-Diếp
8- Mục-Kiền-Liên
9- Đại-Thế-Chí
10- Địa-Tạng
11- A-Nan
12- A-Dục-Vương
13- Bồ-Đề Đạt-Ma
14- Tổ Huệ-Năng
15- Ngài Minh-Hải
16- Thiên-Thai đại-sư
17- Cưu-Ma La Thập
18- Ngài Huyền-Trang
19- Ngài Vô-Ngôn-Thông
20- Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi
21- Khương-Tăng-Hội
22- Khuông-Việt thiền-sư
23- Mãn-Giác thiền-sư
24- Ngài Nguyên-Thiều
25- Ngài Liễu-Quán
26- Vua Trần-Nhân-Tôn
27- Vua Lý-Nhân-Tôn
28- Sư Không-Lộ
29- Giám Trai sứ-giả
30- Hư-Vân hòa-thượng
1.- Đức Phật A-Di-Đà Và Những Hạnh Nguyện Của Ngài
Phật A-Di-Đà là hình ảnh và danh hiệu quen thuộc đối với người tu hành theo pháp môn Tịnh-độ.
A-Di-Đà Phật có 3 nghĩa như sau :
- Vô lượng quang.
- Vô lượng thọ.
- Vô lượng công đức.
Có ý nói rằng đức Phật A-Di-Đà tượng trưng cho ánh sáng vô lượng vô biên, tuổi thọ mạng của Ngài cũng không hạn định và công đức không thể nghĩ bàn. Vì sao, vì đức Phật A-Di-Đà có phát lời thệ nguyện rộng lớn cứu độ khắp tất cả chúng sanh đều được giải thoát, rồi sau Ngài mới vào Niết-Bàn. Ngài có phát 48 lời nguyện với lòng từ bi vô bờ bến muốn cứu khổ cho mọi loài bị đọa lạc nơi địa ngục được giải thoát để sanh về thế giới Cực-Lạc, với một điều kiện duy nhất là hễ ai niệm đến danh hiệu Ngài tới 10 niệm cho được thành tâm sẽ được cảm ứng. Do đó, người Tăng sĩ mỗi khi gặp nhau hay người tín đồ, tại chùa hay tại bất cứ một nơi nào, thường hay chấp tay chào hỏi nhau bằng câu "Nam mô A-Di-Đà Phật" để nhắc nhở nơi mỗi người Phật tử đều có sẵn lòng từ bi vô lượng, cũng như công đức không thể nghĩ lường ở nơi tự tâm mình. Với ý nghĩa đó, mỗi khi gặp gỡ nhau, người Phật tử không dùng lối bắt tay để chào xã giao như cách chào của người Tây-phương mà hay dùng hình thức niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà thật là đầy đủ và có một ý nghĩa cao sâu.
Ngoài ra, người Phật tử còn tin nơi lời nguyện thứ 19 của đức Phật A-Di-Đà rằng mười phương chúng sanh phát Bồ-đề-tâm, tu các công đức nguyện sanh về cõi Cực-Lạc, đến lúc lâm chung, nếu Ngài không cùng với đại chúng hiện thân trước người đó, thì Ngài nguyện không ở ngôi chánh giác, cho đến những việc thọ mạng còn hữu hạn (nguyện thứ 15) lúc chết còn bị sa vào 3 đường ác (nguyện thứ 2), trí sáng suốt còn bị hữu hạn (nguyện thứ 12) v.v... Ngài nguyện không vào ngôi Chánh-giác. Với những lời nguyện cao cả ấy đủ nói lên ý nghĩa danh hiệu của Ngài.
Muốn được giải thoát mọi phiền não, ràng buộc, mỗi ngày chúng ta cố gắng thành tâm niệm đức Phật A-Di-Đà cho được thường xuyên để nuôi dưỡng lòng từ bi, nhờ đó trí huệ sáng suốt sẽ tỏa rạng sáng ngời và làm áp đảo được mọi mê mờ tăm tối.
2.- Sự Tích Và Ý Nghĩa Phật Quan Âm Hay Bồ Tát Quán Thế Âm
Sự tích đức Phật Quan-Âm hay đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có 2 tích truyện rất phổ thông, đã được người bình dân cũng như giới trí thức Việt-Nam, không ai là không biết đến.
Đó là tích Nam-Hải Quan-Âm và vở tuồng chèo Quan-Âm Thị-Kính. Trước hết về tích Nam-Hải Quan-Âm, do một vị Tăng đời Nguyên (TH) sáng tác, rồi truyền vào đất Việt khoảng thế kỷ 14-15, câu chuyện kể như sau : Ngày xưa tại nước Hưng-Lâm (Tây-Trúc) có vua Diệu-Trang trị vì, đã lớn tuổi, vua không có con trai để nối ngôi nên đến cầu tự ở đền Tây-Nhạc-Đế. Lời cầu xin thành khẩn của vua cảm đến Ngọc-Hoàng, vua được toại nguyện, nhưng sau lại chỉ hạ sanh được 3 người con đều là công chúa, đó là 3 người con trai con nhà họ Thi có tiếng nhân đức sau khi chết đã được tái sanh thành Diệu-Thanh, Diệu-Âm và Diệu-Thiện hay Chúa-Ba. Chúa-Ba sớm tin kính Phật, không chịu nghe theo lời cha về việc kết hôn, bèn bỏ nhà đi tu. Vua quá giận cho người bắt giam. Nhưng không vì thế mà bà nãn lòng, chí xuất gia đầu Phật lại càng mạnh mẽ hơn. Đức tin như có sức mạnh phi thường không làm gì lay chuyển nổi. Vua cha càng giận, tìm hết mọi cách để thuyết phục rồi dùng áp lực cũng không thể nào làm thay đổi chí hướng bà.
Sau cùng, vua ra lịnh đốt chùa, Diệu-Thiện hóa phép cầu trời, rồng xuống phun nước dập tắt ngọn lửa. Còn ni-cô bị xử chém, nhưng đao phủ vừa đưa gươm tới cô Diệu-Thiện thì liền bị gãy đôi. Trời sấm chớp nổi lên, đột nhiên một con mãnh hổ nhảy chòm tới mang Diệu-Thiện đi mất dạng. Được biết, khi chết hồn ni-cô du xuống 18 cửa địa ngục nơi địa phủ và chứng kiến các tội nhân đang bị hình phạt đau đớn, bèn động lòng từ bi mới khẩn cầu :
Khẩn cầu tụng chú, niệm kinh,
Ngọc-Hoàng cảm động lòng thành tự nhiên.
Rồi hóa phép để giải phóng các hồn oan đang bị tù tội, khiến vua Diêm-Vương thán phục lòng độ lượng của ni-cô.
Sau đó, hồn ni-cô trở lại dương thế, nhập lại vào xác và đến đất Giao-Châu, tức lưu vực sông Nhị-Hà (Bắc Việt). Ở đấy, ni-cô quyết lòng tu niệm. Phật tổ Như-Lai hóa phép thành một thanh niên tuấn tú để thử lòng một lần sau chót, nhưng không có cách gì cám dỗ nổi được bà. Đức Phật tổ bèn hiện ra nguyên hình và chỉ đường cho ni-cô về chùa Hương-Tích. Nhờ tinh tấn tu hành, ni-cô Diệu-Thiện chứng thành chánh quả, tức là Phật Bà Quan-Âm. Phật Bà có 2 đệ tử là Thiện-Tài, chú bé mồ côi theo hầu một bên và bé gái vốn giòng Long-Nữ, đội lốt lý ngư bị mắc nạn, được Phật Bà cứu thoát nên theo Ngài luôn.
Chẳng may tin vua cha mắc bịnh hiểm nghèo. Vua yết bảng tìm lương y và hứa trao ngôi báu sau khi lành bịnh, các danh y đều chịu bó tay. Diệu-Thiện biến thành một lương y xin vào cứu vua. Đoán bịnh xong, lương y bảo : Bịnh vua muốn trị lành chỉ cần tới mắt và tay của vị tiên nữ tu trên núi Hương-Tích thì chữa khỏi ngay. Vua bèn giữ lương y lại và cho người lên chùa Hương-Tích theo lời dặn. Vì lòng từ bi Phật Bà sẵn sàng hy sinh thân mạng để cứu người. Xin được mắt và tay đem về trị bịnh vua được lành ngay như thần, theo đúng như lời vị lương y chẩn mạch, cho toa. Liền sau khi lành bịnh vua định làm lễ truyền ngôi cho lương y thì người đã biến mất dạng. Nhờ phép thần thông, Phật Bà cứu được vua cha khỏi hiểm nạn, vừa hiện hình lại đủ cả mắt và tay. Hai người đệ tử cũng đã dùng thần thông cứu thoát hai chị của Phật Bà là Diệu-Âm và Diệu-Thanh giác ngộ được đạo mầu giải thoát. Lúc lành bịnh, vua cha mới tỉnh ngộ, tỏ lòng biết ơn đạo Phật đã cứu mình và giải nguy cho cả nhà, cả nước. Cho tới lúc được thoát nạn, vua vẫn chưa biết chính công chúa Ba, con mình đã đắc đạo có đủ phép thần thông biến hóa như thế để làm tròn bổn phận của con đối với cha mẹ, gia đình, của người dân đối với nước.
Sau khi toàn thể gia đình vua Diệu-Trang-Vương gặp nhau ở chùa Hương-Tích, nói Chúa-Ba đã thành Phật, thì cả nhà đều quy y theo Phật giáo :
Phật Bà phép chí vô biên,
Một thân hóa mấy mươi ngàn muôn thân.
... Thần thông nghìn mắt nghìn tay,
Phổ môn biến để độ loài ngu mông
Lấy câu sắc sắc không không,
Giả làm nam tử thử lòng người ta.
Bảo đèn sen chín tầng hoa,
Gió nhân, mưa phép khắp hòa chúng sanh.
Trên trời dưới đất xoay quanh,
Bao nhiêu khổ nạn tầm thanh hộ trì.
Tóm lại, người xuất gia tu học Phật cũng có thể làm tròn đạo hiếu đối với gia đình và thực hiện đầy đủ lòng nhân như việc cứu người, là triết lý sống động, thực tiển, rất thích hợp với tâm lý của người dân Việt.
3.- Phật Di Lặc Tại Sao Có Người Gọi Là Bồ Tát Di Lặc !
Di-Lặc họ A-Dật-Đa, tên là Di-Lặc hay Vô-Năng-Thắng, người Nam-Thiên-Trúc, dòng Bà-la-môn. Di-Lặc nghĩa là Từ-Thị tức hiền lành. Ngài sẽ kế vị đức Phật Thích-Ca và là vị Bồ-Tát bổ xứ.
Đức Phật Di-Lặc có nhiều tên gọi khác nhau như Di-Đế-Lệ, Mai-Đế-Lệ, Mê-Đế-Lệ, Mai-Hằng-Lệ, Mỗi-Hằng-Lý, Mai-Hằng-Lệ-Dược, Vị-Hằng-La-Duệ, Ông mang đảy vải, Ông Phật bụng phệ ... để chỉ cho danh hiệu của Ngài.
Trước khi đức Phật Thích-Ca nhập diệt có nói rằng đức Phật Di-Lặc sinh ở nội viện của cung trời Đâu-Suất trải qua 4000 năm sẽ hạ sanh vào cõi đời nầy, nơi vườn Hoa-Lâm tại hội Long-Hoa để dẫn dắt chúng sanh tu tập chánh pháp. Ngài tu pháp tam-muội từ-bi nên gọi là "Từ Thị". Từ đó cho đến sau khi thành Phật Ngài mang tên nầy. Đức Di-Lặc sẽ là vị Phật thứ 5 trong Hiền kiếp (Câu-Lưu-Tôn, Câu-Nam-Hàm Mâu-Ni, Ca-Diếp, Thích-Ca và Phật Di-Lặc) sẽ ra đời kế tiếp đức Phật Thích-Ca để truyền bá chánh pháp tại hội Long-Hoa kỳ 3. Ngài sẽ thuyết pháp độ sanh cho cả trời và người.
Có nhiều bộ kinh mang tên Ngài như : Di-Lặc Thượng kinh, Di-Lặc Hạ kinh, kinh Di-Lặc thành Phật, kinh Di-Lặc Đương Lai Hạ Sanh Thành Phật .... Ngài là vị Phật thể hiện lòng từ bi vô lượng. Bên cạnh chỗ Ngài ngồi luôn luôn có 6 em bé theo quấy nhiễu như đứa chọc nách, đức móc mắt, đứa vỗ mặt ... nhưng Ngài vẫn nở nụ cười hoan hỷ. Sáu đứa nhỏ tượng trưng cho lục tặc tức sáu món giặc phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) luôn quấy phá người tu hành, nhưng Ngài vẫn an trụ tâm thanh tịnh không hễ nao núng trước nghịch cảnh.
Hình ảnh đức Phật Di-Lặc rất gần gủi và thân thiện với trẻ con cũng như với người bình dân. Người Nhật-Bản gọi đức Phật Di-Lặc là MIROKUNO HOTOKE cũng hàm ý nghĩa từ bi nầy.
4.- Đức Phật Dược Sư Có Những Hạnh Nguyện Gì ? Ngài Là Chủ Của Thế Giới Nào ?
Đức Phật Dược-Sư hay nói cho đủ là Dược-Sư Lưu-Ly-Quang Như-Lai hoặc còn gọi là Phật Đại-Y-Vương, với tên là Y-Vương-Thiện-Thế Phật.
Đức Phật Dược-Sư là vị Giáo-chủ cõi Đông-phương Lưu-Ly Thanh-Tịnh. Phật Di-Đà là Giáo-chủ cõi Tây-phương, Phật Thích-Ca là Giáo-chủ cõi Ta-Bà tức là thế gian nơi chúng ta đang sống.
Sở dĩ đức Phật Dược-Sư được xưng tán, vì Ngài là một đại y được làm chủ cảnh giới Đông-phương. Ngài có phát 12 lời thệ nguyện rộng lớn cứu độ hết tất cả chúng sanh nào mắc bịnh nan y, dù đã cầu cứu tới nhiều vị danh y, nhưng bịnh vẫn không lành ; nếu kêu tới danh hiệu của Ngài thì sẽ được toại nguyện. Sau đây là 12 lời thệ nguyện của Ngài :
1- Nguyện đem thân mình làm đuốc soi sáng cho kẻ khác.
2- Nguyện đem oai đức cao cả che chở cho tất cả chúng sanh.
3- Nguyện làm cho chúng sanh được no đủ như chỗ mong cầu đều được toại ý.
4- Nguyện dẫn dắt chúng sanh tu theo pháp của Đại-thừa.
5- Khiến cho chúng sanh thực hành hạnh thanh tịnh và giữ giới, tu tập các công đức lành.
6- Nguyện làm cho chúng sanh nào mà các căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân thể, chân tay) không đầy đủ được trọn đủ.
7- Nguyện chữa trừ các bệnh tật cho chúng sanh, khiến chúng thân tâm an lạc và chứng được đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.
8- Nguyện cho tất cả chúng sanh chuyển thân nữ thành thân nam.
9- Khiến các loài hữu tình thoát khỏi thiên ma, ma ba tuần, ngoại đạo và phá rừng tà kiến để nhập vào chánh đạo.
10- Nguyện làm cho chúng sanh giải thoát khỏi điều xấu ác bủa vây, hảm ngặt khó mong ra khỏi.
11- Làm cho bịnh đói khát của chúng sanh không còn và chỉ hưởng thức ăn thiền định vui vẽ an lạc.
12- Nguyện cho những người thiếu thốn y phục hoặc không đủ áo quần che thân được y phục tốt đẹp.
Với những hạnh nguyện cao cả ấy, đức Phật Dược-Sư luôn luôn được người đời xưng tán như một vị danh y trong đời sống đa nạn nầy.
5.- Ngài Văn Thù Bồ Tát Có những Hạnh Nguyện Gì
Văn-Thù nói cho đủ là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hay còn gọi là Mạn-Thù-Thi-Lợi hoặc Mạn-Thù-Thất-Lợi.
Văn-Thù theo cựu và theo tân dịch đều có 6 nghĩa khác nhau như theo kinh Vô-Lượng-Thọ và kinh Niết-Bàn dịch là "Diệu-Đức", còn kinh Vô-Hành dịch là "Diệu-Thủ", kinh Quán-Sát-Tam-Muội và kinh Đại-Tịnh Pháp-Môn dịch là "Phổ-Thủ", kinh A-Mục-Khiếp Phổ-Siêu dịch là "Nhu-Thủ", kinh Vô-Lượng-Môn-Triệt-Mật và kinh Kim-Cương-Anh-Lạc dịch là "Kính-Thủ". Trở lên 5 nghĩa theo cựu dịch, còn theo kinh Đại-Nhựt dịch là "Diệu-Kiết-Tường". Vì chữ Văn-Thù hay Mạn-Thù đều có nghĩa là "Diệu", còn chữ Sư-Lợi hay Thất-Lợi có nghĩa là "Đức" tức có ý tốt đẹp trong nghĩa của chữ Kiết-Tường. Ngài thường đứng hầu bên tay trái của đức Phật Thích-Ca, tượng trưng bậc trí tuệ tuyệt vời, còn ngài Phổ-Hiền tượng trưng lý tánh viên dung, vì giữa lý và trí tuệ tròn đủ vô ngại của cả hai, nên thường đứng cạnh nhau. Tóc trên đỉnh đầu Ngài kết thành 5 xoáy, biểu hiệu trí tuệ sáng suốt như mặt trời chiếu sáng, tay cầm kiếm tượng trưng trí tuệ chiếu soi mọi chướng ngại phiền não. Ngài ngồi trên lưng sư tử tượng trưng oai dũng, do đó chữ Văn-Thù có nhiều nghĩa khác nhau và trong nhiều bộ kinh dịch theo một cách khác tuy đồng một Văn-Thù. Ngài là vị Bồ-Tát có trí tuệ bậc nhất, theo hầu cận như cánh tay trái của Phật tổ để duy trì ủng hộ Phật Pháp. Ngài cùng với ngài Phổ-Hiền là pháp hữu đồng tu và chứng đắc đạo quả tại hội Long-Hoa, do đó, Văn-Thù còn được gọi là Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương-Tử, có ý nói rằng Ngài là con của đấng Pháp-Vương tức đức Như-Lai, do nương theo giáo pháp của Phật để tu và đạt được đạo.
Ngài là vị Bồ-Tát xứng đáng cho hàng đệ tử Phật lễ bái xưng tán danh hiệu để noi theo trí sáng suốt qua mọi thời gian và không gian.
6.- Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Và Những Lời Phát Nguyện Ra Sao ?
Phổ-Hiền tiếng Phạn là Bật-Du-Bạt-Đà hay còn gọi là Tam-Mạn-Đa-Bạt-Đà-La và người Tàu dịch chữ Phổ-Hiền là Biến-Kiết tức chỉ cho điều lành trải rộng khắp.
Chính ngài Phổ-Hiền tròn đầy lý tánh, đức tướng, lý hạnh, cùng với trí đức như ngài Văn-Thù. Ngài Phổ-Hiền thường được gọi là bậc hiệp sĩ đứng hầu bên phía tay phải của đức Phật Thích-Ca, cỡi trên lưng con voi trắng. Voi trắng tượng trưng giữa lý trí và đức hạnh tương dung, cũng như Tam-Muội và Bát-Nhã đều là pháp thân biến chiếu khắp nơi của đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na. Kinh Hoa-Nghiêm chứng minh rằng y theo đức Phật nầy (Tỳ-Lô) và pháp môn của 2 vị Bồ-Tát (chỉ Văn-Thù và Phổ-Hiền) nên gọi là Hoa-Nghiêm Tam-Thánh và lấy từ căn bản đức trí đó của ngài Phổ-Hiền mà lập nên 10 đại nguyện, là cái thể thật tướng của các pháp. Còn theo kinh Pháp-Hoa thì do nguyện Tam-Muội mà ngài Phổ-Hiền hiện ra thân hình thật tướng. Vì chữ Tam-Mạn-Đà có nghĩa là "phổ" tức là cùng khắp hay phổ cập các nơi, còn Bạt-Đà-La là "hiền" vậy. Ngoài ra, chữ Biến-Kiết cũng có cùng nghĩa Biến là "phổ" và Kiết tức là "hiền". Theo người Tàu có chú giải trong nhiều bộ kinh thì sự biến hóa không lường gọi là phổ và tu chứng được bậc Á-Thánh nên gọi là hiền.
Ở các chùa thường thờ ngài Phổ-Hiền và ngài Văn-Thù ở hai bên tả hữu đức Phật Thích-Ca. Ngài Văn-Thù thì ngồi trên mình sư tử bên phía tay trái của đức Phật.
Đây là vị Bồ-Tát hóa thân theo hầu cận Phật tổ để ủng hộ và giữ gìn Phật Pháp trong 10 lời đại nguyện do Ngài phát ra (xem bài 10 nguyện Phổ-Hiền).
7.- Ngài Ma Ha Ca Diếp Dòng Dõi Và Việc Kế Thừa Tâm Pháp Ra Sao ?
Ma-Ha Ca-Diếp hay còn gọi là Ma-Ha Ca-Diếp-Ba. Chữ Ma-Ha có nghĩa là lớn lao, vĩ đại ; chữ Ca-Diếp-Ba là sáng rỡ, nơi nương tựa, người dòng Bà-la-môn, mang tên là Tát-Ba-La.
Cha mẹ Ngài kỳ nguyện thần linh nơi cây Tát-Bát-La mà thọ sanh nên gọi tên Tất-Bát-La, là con của một nhà giàu có, nhưng không màng thế giá, phát tâm tu theo hạnh đầu đà, và là người biết rộng hiểu sâu. Do đó Ngài mang tên Đại hay còn có biệt danh là Thập-Lực hoặc Ưu-Lâu-Tần-La. Ngài là một trong 10 đệ tử gần gủi đức Phật để thực hành theo hạnh Đầu-Đà, nên gọi là bậc Đầu-Đà đệ nhất. Theo kinh Tăng-Nhứt A-Hàm, chỉ riêng ngài Ca-Diếp có nên còn gọi là Đại Tỳ-kheo Ca-Diếp vậy.
Tương truyền rằng khi đức Phật Thích-Ca thuyết pháp tại núi Linh-Sơn, một hôm Ngài cầm hoa sen giơ lên giữa đại chúng có hơn 1000 người. Lúc bấy giờ mọi người đều yên lặng, vì không ai lãnh hội được thâm ý của Phật, nhưng chỉ có một mình ngài Ca-Diếp mĩm cười, Phật biết cơ duyên đã đến, liền phó pháp cho Ngài và dặn dò những lời tâm pháp : "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng là pháp vi diệu, không lập văn tự, nhưng truyền rộng khắp nơi, vượt ra ngoài những lời chỉ dạy, nay pháp ấy thuộc về ngươi".
Do những lời di chúc truyền tâm pháp ấy, sau nầy Thiền-tông lấy đó làm kim chỉ nam cho việc truyền pháp là dĩ tâm truyền tâm (lấy tâm truyền tâm) tức là có sự cảm ứng giữa hai người với nhau mới hiểu được. Việc nầy nói ở kinh nào và do ai truyền đạt, trong Đại tạng kinh không thấy nói tới. Mãi cho tới đời Tùy, đời Đường (618-907) có nhiều bậc Thiền đức cũng không thấy đề cập tới. Nhưng vào đời Tống (960-1279), vua Tống-An-Thạch cho rằng tích lấy từ kinh "Đại-Phạm Thiên-Vương Vấn Phật Quyết Nghi" và theo sách "Tông Môn Tạp Lục" có dẫn lời ngài Huệ-Tuyên Thiền-sư cũng đồng một quan điểm như trên, lại còn cho biết rõ thêm chi tiết rút ra từ bộ kinh ấy, quyển thứ ba.
Bộ kinh nầy bàn phần nhiều những vấn đề do các vị vua hỏi Phật về chỗ tu hành đạt ngộ chân lý, do đó, đã không được nhiều người biết tới lai lịch (trong Phật tổ thống kỷ quyển 5 cũng có dẫn ra thuyết nầy).
8.- Mục Kiền Liên Có Công Hạnh Gì Trong Phật Giáo ?
Mục-Kiền-Liên hay Mục-Càng-Liên, trong kinh Di-Đà còn gọi là Ma-Ha Mục-Kiền-Liên hoặc Mục-Liên là một trong mười vị đại đệ tử của Phật có phép thần thông bậc nhất.
Ngài còn có tên là Ma-Ha Một-Đặc-Già-La, dịch là Đại-Tán-Tụng tương truyền rằng, Ngài cùng với ngài Xá-Lợi-Phất lúc đầu đồng tu hành với sáu vị thầy ngoại đạo, sau vì nhận thấy pháp tu của họ không thể giải thoát rốt ráo được, nên chán bỏ đi và từ giả Xá-Lợi-Phất để theo hầu cận đức Phật tinh tấn tu hành. Một hôm Xá-Lợi-Phất đến thành Vương-Xá gặp được 5 thầy Tỳ-kheo trong đó có Mục-Kiền-Liên dung nghi đạo mạo bèn hỏi lý do mới hay có Phật ra đời, họ được nghe pháp mầu nên tâm được an vui trong chánh niệm. Liền đó, Xá-Lợi-Phất xin theo các thầy Tỳ-kheo về đến tinh xá Trúc-Lâm để gặp Phật. Tại đây, Xá-Lợi-Phất được nghe Phật nói pháp và sau đó xin ở lại luôn cũng như xin làm đệ tử Phật. Sau nhờ tinh tấn tu hành ngộ được chánh pháp và chứng được trí huệ bậc nhất. Chính Xá-Lợi-Phất cùng với Mục-Kiền-Liên là hai đệ tử trung tín đứng hai bên tả hữu của đức Phật Thích-Ca.
Theo truyền thuyết trước khi đức Phật nhập diệt, ngài Xá-Lợi-Phất và ngài Mục-Kiền-Liên thưa thỉnh Phật giảng dạy về Niết-Bàn. Phật dặn dò hai vị đệ tử thượng thủ rằng : Theo lẽ thường của chư Phật trong ba đời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai đều thị hiện ra đời và tịch diệt, ta cũng theo thông lệ ấy mà hóa, các ngươi đừng vì lẽ đó mà u sầu khổ não. Dù ta không còn trụ thế nhưng giáo pháp còn tức là hình ảnh Như-Lai luôn luôn ở bên cạnh các ông. Lúc bấy giờ ngài Mục-Kiền-Liên vào thành La-Duyệt khất thực, có người Phạm-Chí thấy Mục-Kiền-Liên đến bèn dồn dập hỏi : "Ngài có phải là đệ tử Sa-môn Cù-Đàm (tức đức Phật Thích-Ca) không ?"
Ngài Mục-Kiền-Liên biết mình sắp ngộ nạn, lặng thinh không đáp. Người kia tự nghĩ, trong số các đệ tử của ông ấy không có ai như người nầy cả. Chúng ta nên đánh và giết tên nầy ! Các người Phạm-Chí cùng nhau xúm lại đả thương Mục-Kiền-Liên tới tấp. Lúc đó, Mục-Kiền-Liên liền vận thần thông để về đến tinh xá Kỳ-Hoàn tìm gặp Xá-Lợi-Phất và trình bày rõ mọi việc. Xá-Lợi-Phất nói : Trong số các đệ tử của Phật, Ngài là bậc thần túc thông bậc nhất sao không dùng thần túc để tránh né bọn côn đồ ? Mục-Kiền-Liên trả lời, tôi vì nghiệp chướng quá sâu dày nên việc sử dụng thần thông lúc đó không có hiệu quả gì cả, cho nên thật lấy làm khổ não và hổ thẹn. Tôi đến đây để từ biệt tôn huynh và vào Niết-Bàn trước để tu luyện. Xá-Lợi-Phất nói : Nay Ngài thiếu duyên ở đời và muốn thoái thác, vậy thì tôi xin vào Niết-Bàn trước. Nói xong Xá-Lợi-Phất liền tiến đến chỗ đức Phật để từ giả, trong khi đó đức Phật cũng sắp vào Niết-Bàn. Xá-Lợi-Phất đọc kệ rằng : Đi và đến nơi đời, rồi thác sanh làm người, thân thích đồng hương, nói pháp rồi diệt độ, ta nay cũng theo lẽ ấy mà thị tịch ... Ngài Mục-Kiền-Liên cũng đến từ giả đức Thế-Tôn để an trụ vào Niết-Bàn. Ngài Mục-Kiền-Liên lúc sanh tiền đã tỏ ra là người con đại hiếu đối với mẹ. Bà Thanh-Đề lúc sống vì bỏn sẻn, nên khi chết bị đọa vào trong kiếp ngạ quỷ phải chịu đủ mọi cực hình đói khát. Mục-Kiền-Liên đã vận thần thông vào trong địa ngục tìm thấy mẹ đang thọ cực hình. Quá thương xót, Mục-Liên muốn cứu mẹ, nhưng không thể nào cứu được, bèn trở về bạch Phật chỉ dạy cách cứu thoát cho mẹ ra khỏi cảnh khổ đói khát. Phật dạy, vào ngày Rằm tháng Bảy chư Tăng sau ba tháng an-cư tâm được thanh tịnh, nếu thành tâm cầu nguyện mọi việc sẽ được thành tựu. Ông nên thiết lễ cúng dường Trai Tăng bằng cách sắm đồ ăn, thức mặc, đủ vị đủ màu thỉnh cầu các bậc chư sơn Thiền đức lại chú nguyện cho thì mẹ ngươi sẽ thoát được kiếp ngạ quỷ. Thực hiện đúng theo lời Phật dạy, ngài Mục-Kiền-Liên đã cứu được bà Thanh-Đề thoát qua hiểm nạn. Lễ Vu-Lan có bắt đầu từ đó và mỗi năm vào ngày Rằm Trung-nguyên những người con hiếu muốn đền đáp công ơn cha mẹ kẻ còn người mất đều được lợi lạc nên tổ chức lễ thật trọng thể.
9.- Đại Thế Chí Bồ Tát VÀ Hạnh Nguyện Ngài
Ở nhiều ngôi chùa thờ 3 vị Phật ; Di-Đà chính giữa, Quán-Thế-Âm bên tả và Đại-Thế-Chí bên hữu. Chính Bồ-Tát Đại-Thế-Chí biểu tượng cho ánh sáng của trị tuệ biến chiếu khắp các cõi tối tăm.
Theo như kinh Bi-Hoa phẩm Bồ-Tát Thọ Ký chép thì, lúc chưa xuất gia Ngài là con trai thứ tư của vua Vô-Tránh-Niệm. Vua cha tin Phật và thường cúng dường Phật cùng chư Tăng, do nhân duyên đó Ngài thường gần gũi đức Phật Bảo-Tạng và phát nguyện xuất gia tu hành và đắc đạo hiệu là Đại-Thế-Chí.
Nhờ trí tuệ tuyệt vời, Ngài tu theo pháp môn niệm Phật tam-muội mà thành Chánh-giác cứu độ muôn loài. Ngài cũng dùng ánh sáng trí giác tu chứng soi sáng tâm địa cho chúng sanh trong các cõi tối tăm được giải thoát.
Hình tượng Bồ-Tát hiện thân là tướng người cư sĩ, nơi cổ có đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu vớt chúng sanh ra khỏi mê lầm, tội lỗi.
Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai mà đức Đại-Thế-Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy biết bao công phu !
Phương châm thường dùng trong Phật giáo là Bi-Trí-Dũng, tức là từ bi, trí tuệ và dũng mãnh cũng trong cùng một ý nầy.
10.- Địa Tạng Bồ Tát Với Lời Phát Nguyện Ra Sao ?
Người Phật tử mỗi khi có người thân qua đời thường hay phát nguyện trì tụng kinh Địa-Tạng. Việc làm nầy có liên hệ ra sao với Bồ-Tát Địa-Tạng ?
Địa-Tạng là tên của Bồ-Tát có nhiều nghĩa khác nhau : Nhẫn nại, như như bất động, tư duy kín mật. Nhờ các đặc tính kia mà Ngài tu hành chứng đạo và nguyện xả thân vào trong chốn địa ngục để cứu độ những chúng sanh bị đọa lạc, khốn cùng. Bồ-Tát có phát lời nguyện rộng lớn cứu độ tất cả chúng sanh trong chốn địa ngục và có thệ rằng nếu còn một chúng sanh nào bị đọa lạc vào đường dữ thì Ngài không thành đạo chứng Phật quả. Do nguyện lực kim cương ấy đủ chứng minh cho hàng Phật tử tin tưởng nơi Ngài một cách tuyệt đối. Mỗi khi ta niệm thành tâm danh hiệu Ngài hoặc trì kinh Địa-Tạng cho chí thành sẽ cảm ứng tới Phật, vì có cảm ứng thì đạo mới giao hòa được ...
Hình Ngài thường đứng thẳng, mặc y mầu đỏ, tay phải cầm tích trượng (gậy chống) có 12 khoen và, tay trái nâng hạt minh châu ; trên đầu có đội mão. Tướng mạo trang nghiêm Ngài có thể ra vào tự tại trong chốn địa ngục, với pháp 12 nhân duyên mà Ngài như đã thu gọn vào trong lòng bàn tay bằng cây gậy chống, để dẫn đường cho chúng sanh thoát bể khổ của vòng sanh tử.
Muốn cho việc lễ bái, tụng niệm của chúng ta có kết quả thì cần phải chí tâm mới đạt được mục đích mong cầu.
11.- Ngài A Nan Và A Nan Đà Cùng Một Tên ?
A-Nan là con vua Hộc-Phạn, em vua Tịnh-Phạn và là em họ với Phật Thích-Ca, sinh nhằm ngày với đức Phật Thích-Ca thành đạo, nên tên Ngài có nghĩa là Khánh-Hỷ (vui mừng) mà tiếng Phạn là Ananda.
Được theo hầu hạ Phật trong những cuộc đi du thuyết giáo hóa và lại có trí tuyệt luân, cho đến khi Phật nhập diệt, ngài A-Nan cũng vẫn còn hầu cận một bên.
Ngài là một trong số 10 đệ tử danh tiếng của Phật có trí tuệ sáng suốt và được Phật tôn xưng là "đa văn đệ nhất". Sau khi Phật vào Niết-Bàn, Ngài là người đứng ra vận động chư Tăng kiết tập lại kinh điển lần thứ nhất tại núi Kỳ-Xà-Quật thuộc nước Ma-Kiệt-Đà, ở thành Vương-Xá gồm có 500 người toàn là Tăng sĩ. Tuy nhiên trong lần kiết tập đầu tiên kinh điển chưa biên chép thành văn tự mà do trí nhớ của ngài A-Nan tuyên lại những lời Phật đã giảng thuyết ở khắp các nơi cho đại chúng nghe. Thường trong các kinh ở phần mở đầu đều bằng câu : "Như thị ngã văn " (ta nghe như thế nầy), đó chính là lời ngài A-Nan tự thuật vậy.
Ngài thường được thờ chung với đức Phật Thích-Ca và bên phía tay mặt, trong khi đó tượng ngài Ca-Diếp bên tay trái của Phật. Ngoài ra, ngài A-Nan cũng là người đầu tiên bạch xin cho nữ giới xuất gia, tức là bà Da-Du-Đà-La đã tu hành chứng quả A-la-hán.
Người Phật tử luôn luôn học theo hạnh nguyện của Ngài để trí tuệ minh mẫn, đạo tâm bền chặt.
12.- A Dục Vương Có Công Gì Trong Phật Giáo Và Ở Thời Kỳ Nào ?
Vua A-Dục hay vua Asoka có nghĩa là Vô-Ưu, sanh năm 321 trước Tây-lịch, là cháu của vua Thi-Đà-Quật-Đa Đại-vương, người có công thống nhất toàn xứ Ấn-Độ và bảo vệ cũng như truyền bá Phật giáo khắp nơi.
Căn cứ vào truyện A-Dục-Vương thì lúc nhỏ vua tính cuồng bạo, cải lời vua cha không thuận lập anh là Tu-Tư-Ma lên kế vị. Nhân trong nước có loạn do nước Xoa-Thi-La đem quân sang gây hấn, ông phụng mạng lệnh cha đi dẹp loạn, nhưng không cần kiếm cung mà cần binh lực thuộc bốn binh chủng (thủy, lục, mã, bộ binh, vì lúc đó chưa có không quân). Dẹp yên được giặc uy tín vang lừng từ đó. Sau khi vua cha băng hà, bèn giết anh Tu-Tư-Ma để lên ngôi vua. Nhưng theo Nam truyện và căn cứ vào bộ Đại-Sử chương 5 thì lời thuật có khác nhau là lúc A-Dục chưa làm vua đã làm phó vương trông coi việc nuôi chim. Lúc tại nhiệm ông chuyên lo việc kiếm cung, khi nghe tin cha mất liền trở về kinh đô và lập mưu giết anh Tu-Tư-Ma để lên kế ngôi. Trong hơn 4 năm liền cùng lập mưu với người anh trai của mẹ là Đế-Tu đã giết tất cả những anh em trong giòng họ cả thảy 99 người và sau đó lên làm vua vào năm 280, sau đức Phật nhập Niết-Bàn.
Cả hai thuyết đều khác nhau, nhưng niên đại thì giống. Tánh vua hung bạo, chuyên việc giết hại và dưới tay vua vô số sanh linh bị chết một cách hàm oan. Để đoái công chuộc tội, vua quy y theo Phật giáo và phát huy tinh thần đại từ bi trong công việc nổ lực tuyên dương chánh pháp, cũng như lập được 84,400 ngôi chùa và 84,400 ngôi tháp. Vua ở ngôi trong 17 năm, có công trong việc nhóm họp đại chúng kết tập kinh điển lần thứ 3 sau Phật nhập diệt 300 năm tại thành Hoa-Thị. Trong lần kiết tập nầy ngài Mục-Kiền-Liên tử đế tu được bầu làm chủ tọa.
Vua còn cho thiết lập những di tích nơi đức Phật tu khổ hạnh, nơi thành đạo và nơi nhập diệt mà ngày nay những trụ đá lịch sử nầy vẫn còn tồn tại với thời gian tại Ấn-Độ.
13.- Tổ Bồ Đề Đạt Ma Xuất Thế, Dòng Dõi Và Truyền Pháp Ra Sao ?
Bồ-Đề Đạt-Ma dịch là Pháp, tức quy tắc hay chấp trì. Ngài là sơ tổ của phái Thiền-tông Trung-Quốc và là tổ thứ 28 của Phật giáo Ấn-Độ. Ngài kế thừa Phật Pháp từ tổ Ca-Diếp là đệ nhất tổ.
Ngài người Nam Thiên-Trúc dòng Sát-Đế-Lợi, con trai thứ ba của vua Hương-Chí, với tên thật là Bồ-Đề-Đa-La. Sau khi gặp tổ thứ 27 là Bác-Nhã-Đa-La và được nối dòng Tông pháp nên được đổi tên từ Đa-La sang Đạt-Ma. Vào đời Lương (520) niên hiệu Phổ-Thông nguyên niên, Ngài vượt biển cả, trải qua hàng ngàn dặm với nhiều nguy khó và sau cùng đến đất Quảng-Châu. Tại đây ngài được vua Võ-Đế đón về đất Kiến-Nghiệp, nhưng tiệt nhiên không nói một lời nào cả. Sau khi ở Quảng-Châu một thời gian, Ngài vượt sông sanh đất Ngụy, nhưng đến đời Hậu-Ngụy (?) năm Chánh-Hiếu-Minh nguyên niên, Ngài dừng chân tại chùa Thiếu-Lâm, suốt ngày ngồi xoay mặt vào vách mà tọa thiền nên người đương thời gọi Ngài là tỵ quán (xoay mặt vào tường). Trong thời gian ở chùa Thiếu-Lâm có nhiều thiền giả đến học đạo thiền với Ngài, trong số đó có ngài Huệ-Khả, sau được truyền y bát. Trước khi tịch Ngài truyền pháp cho ngài Huệ-Khả qua bài kệ sau :
Ta đến từ đất lành
Truyền pháp cứu quần sanh,
Một hoa nở năm cánh (*)
Quả mãn tự nhiên thành.
(Ngô bổn lai tư độ,
Truyền pháp cứu quần sanh
Nhứt hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành !)
Ngài tịch vào năm 529 niên hiệu Đại-Thông năm thừ 2 đời nhà Lương. Hài cốt được an táng tại núi Bi-Nhĩ - Vua Lương-Võ-Đế có khắc bia ghi công hạnh Ngài. Đến đời Đường Đại-Tông vua sắc phong cho Ngài là "Viên-Giác Đại-Sư".
*******
(*) Từ đời ngài Đạt-Ma truyền dòng Thiền xuống tới đời ngài Huệ-Năng là 5 đời. Câu thứ ba trong bài kệ có ý nói dòng Thiền do Ngài sáng lập sẽ kế tục được 5 đời truyền pháp. Đó là : Ngài Huệ-Khả, ngài Tăng-Xáng, tổ Đạo-Tín, tổ Hoằng-Nhẫn và tổ Huệ-Năng.
14.- Huệ Năng Tổ Thứ Mấy Của Phật Giáo Trung Quốc ? Thân Thế Và Công Hạnh Ra Sao ?
Ngài Huệ-Năng là vị tổ thứ 6 nối dòng Thiền từ tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma thuộc Thiền phái Lâm-Tế của Phật giáo Trung-Quốc.
Ngài họ Lư, lúc nhỏ mồ côi cha. Gia đình lâm cảnh nghèo thiếu nên phải ngày ngày vào rừng đốn củi lấy tiền về nuôi mẹ. Một hôm, khi đem củi vào chợ bán, giữa đường nghe có người tụng kinh Kim-Cang tới đoạn : "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ..." Ngài dừng lại để nghe và ngộ được thâm ý của bài kệ, bèn tìm tới yết kiến ngũ tổ Hoằng-Nhẫn, lúc đó đang tu tại núi Hoàng-Mai ở đất Quán-Châu. Tổ thấy người hơi lạ kỳ, bèn cho vào liêu (chái bếp sau của chùa) làm việc giả gạo và từ đó mang tên là Lư-Hành-Giả. Tại đây. Lư làm việc ròng rã 8 tháng. Một hôm, Tổ biết cơ duyên đã đến, bèn họp đồ chúng lại và mỗi người phải trình một bài kệ để được truyền tâm pháp. Lúc đó, ngài Thần-Tú làm xong bài kệ đem trình tổ như sau :
Thân thị Bồ-đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài.
Thời thời cần phất thức
Vật sứ nhá trần ai.
(Thân như cây Bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng
Luôn phải năng lau chùi,
Làm gì có bụi bám.)
Ngài Huệ-Năng đọc được thâm ý của bài kệ và biết rằng chính người làm ra bài kệ nầy chưa đạt được tới chỗ thâm áo của đạo Thiền. Ban đêm, trong lúc mọi người đang ngủ, Huệ-Năng nhờ người viết bài kệ của mình lên vách, nội dung như sau :
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai ?
Tạm dịch :
Bồ-đề chẳng thật phải cây,
Kiếng soi đâu hẳn vật dày đài gương
Xưa nay vạn pháp chẳng thường
Bụi trần há dễ bám nương được nào ?
Tổ biết được đó là bài do Huệ-Năng làm nên vào tận trong liêu hỏi :
- Gạo đã trắng chưa ?
Huệ-Năng đáp :
- Gạo trắng đã từ lâu.
Tổ lấy gậy gỏ miệng cối 3 cái rồi lui về phòng, Huệ-Năng ngộ được tâm ý Tổ và chờ tới canh ba mới vào gõ cửa phòng của Tổ. Tổ truyền y pháp và bảo phải mau ẩn lánh về phương Nam trong một thời gian, nếu không sẽ có kẻ ám hại.
Chia tay Tổ, Ngài về phương Nam vào tháng giêng năm Nghi-Phụng nguyên niên và gặp được ngài Ấn-Tông Pháp-sư ở chùa Pháp-Tánh. Sư nghe qua tông yếu Thiền của Ngài, bèn nhận cho làm đệ tử. Đúng vào ngày 15 tháng ấy, Pháp-sư bèn nhóm họp các vị Đại-Đức lại để làm lễ thế phát (cạo tóc) cho Huệ-Năng. Trong thời gian tu học tại chùa Pháp-Tánh, Huệ-Năng tỏ ra tinh tấn và được Bổn-Sư để ý cũng như Tăng chúng mến trọng, nên ngày mồng 8 tháng 2, xin thọ giới Tỳ-kheo với ngài Trí-Quang Luật-sư. Sau đó, Ngài lui về đất Tào-Khê. Ngài tịch vào ngày 3 tháng 8 niên hiệu Khai-Nguyên nguyên niên đời Đường-Huyền-Tông (712) thọ được 76 tuổi.
Đến đời vua Nguyên-Hòa năm thứ 10, vua sắc phong cho Ngài đạo hiệu là "Đại-Giám Thiền-Sư".
15.- Ngài Minh Hải Pháp Bảo Hành Trạng VÀ Pháp Phái ?
Sử liệu không thấy ghi rõ năm sinh và mất cũng như thời kỳ xuất gia của Ngài. Chúng ta chỉ biết được hành trạng và phú pháp cho ngài Minh-Hải còn truyền qua dòng kệ của hệ phái Lâm-Tế thuộc chùa Chúc-Thánh, Quảng-Nam do Ngài sáng lập.
Ngài Minh-Hải Pháp-Bảo người tỉnh Phúc-Kiến, Trung-Quốc, qua An-Nam vào năm 1687, đời vua Anh-Tôn, tức là Ngài đến đồng thời với ngài Nguyên-Thiều. Ngài Nguyên-Thiều phụng mệnh vua Anh-Tôn trở về Trung-Quốc thỉnh chư Tăng và pháp bảo sang Việt-Nam. Một đại giới đàn cũng được tổ chức tại chùa Thiên-Mụ trong thời gian nầy. Ngoài ngài Minh-Hải ra, còn có các ngài Minh-Hoằng Tử-Dung, Minh-Vật Nhất-Trí, Minh-Hoằng Định-Nhiên ... đồng sang nước ta cũng một lúc. Ngài Minh-Hải sau khi đến Việt-Nam được mời chứng minh trong hàng thập sư của đại giới đàn tại Huế. Sau đó, Ngài vào Quảng-Nam, khai sơn chùa Chúc-Thánh, Hội-An. Lúc bấy giờ tại Bình-Định có ngài Nguyên-Thiều đang ra sức xiển dương Phật Pháp, thì tại Quảng-Nam ngài Minh-Hải Pháp-Bảo cũng tận lực đề xướng giáo nghĩa của phái Thiền Lâm-Tế. Hệ phái Lâm-Tế do Ngài truyền xuống tới đời ngài Trí-Thắng Bích-Dung là 41 đời. Các chùa Tam-Thai, Linh-Ứng, Quan-Âm (Ngũ-Hành-Sơn, Non-Nước), chùa Long-Tuyền, Phước-Lâm, Vạn-Đức, Viên-Giác ... (Hội-An) đều thuộc hệ phái của ngài Minh-Hải. Các chùa thuộc tỉnh Quảng-Nam, mỗi năm chư Tăng và tín đồ đều về chùa tổ đình Chúc-Thánh để làm lễ húy nhật tổ thật trọng thể.
Ngài Minh-Hải là tổ sáng lập ra phái Lâm-Tế ở Quảng-Nam, nhưng việc hành đạo trong khoảng thời gian bao lâu, cũng như năm tịch của Ngài không được sử sách ghi lại đầy đủ. Đây là một điều thiếu sót rất lớn vậy.
16.- Thiên Thai Trí Giả Đại Sư Hành Trạng Và Truyền Pháp?
Thiên-Thai Trí-Giả Đại-sư hay còn gọi là Thiên-Thai Đại-sư, tên tự Đức-An, họ Trần.
Năm lên bảy tuổi có cơ hội gần gũi nơi Già-Lam (chùa) và nghe vị Tăng tại chùa tụng kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn một lần, sau đó liền thuộc nằm lòng. Năm lên 18 tuổi xuất gia ở chùa Quả-Nguyện, đất Tương-Châu. Năm 20 tuổi, thọ giới Tỳ-kheo. Trước tiên theo học luật với ngài Huệ-Khoáng Thiền-sư và tinh thông các kinh điển, nhất là kinh Phương-Đẳng. Đời Trần-Văn-Đế, niên hiệu Gia-Nguyên năm đầu (?) có Tư Thiền-sư tu tại núi Đại-Tô đất Quý-Châu, Ngài tìm lên tới đỉnh núi để lễ bái. Thiền-Sư nói : Ngày trước tại hội Linh-Sơn tôi với Ngài đã có túc duyên nghe kinh Pháp-Hoa phẩm "An-Lạc-Hạnh". Khi về, Trí-Giả suốt ngày đêm chuyên tụng kinh Pháp-Hoa trải qua 27 ngày, khi đọc tới đoạn nói về ngộ được kinh Pháp-Hoa như "thị chơn tinh tấn, thị danh chơn pháp cúng dường Như-Lai, thân tâm thoát nhiên nhập định chiếu liễu Pháp-Hoa" bèn khoan khoái reo lên : Không phải ngươi không chứng, không phải ta không biết chỗ sâu sắc của việc nhập định Pháp-Hoa Tam-Muội, pháp phương tiện, nơi phát sinh công đức đầu tiên là Đà-La-Ni vậy. Do đó, Ngài nhóm họp 100,000 người lại để biện luận. Tất cả đều tôn Ngài là bậc thượng thặng thứ nhất và đem lòng kính phục. Đời Trần, niên hiệu Quang-Đại-Nguyên niên, Ngài cùng với các bạn đồng tu 27 người đến kinh đô Kim-Lăng. Sau đó, Ngài được mời vào chùa Ngỏa-Quang để giảng kinh Pháp-Hoa, vào năm thứ 30 niên hiệu Đại-Kiến-Nguyên Niên. Ngài giảng qua bộ đại Trí-Độ-Luận và thứ lớp của pháp môn tu thiền định. Đời Trần, niên hiệu Đại-Kiến thứ 7, tháng 9 vào mùa thu, Ngài vào núi Thiên-Thai để an cư. Hai năm sau, vua nghe danh mới cho xây cất chùa để Ngài ở tu. Niên hiệu Đại-Kiến thứ 10, vua Trần một mực muốn thỉnh Ngài về Kim-Lăng. Buộc lòng Ngài phải nghe theo và dừng chân tại chùa Linh-Siêu đất Kim-Lăng để giảng kinh luận, cũng như giảng kinh Bát-Nhã ở điện Thái-Cực cho hoàng phái, sau dời về chùa Quang-Trạch, nhưng bị thất bại nên các cuộc giảng pháp không còn tiếp tục được nữa. Ngài lui về an dưỡng tại núi Lư-Sơn. Đời Tùy (581-617) niên hiệu Khai-Hoàng thứ 11, vua Tấn là Trần-Kiến-Khương cho người tới Kim-Lăng (núi Lư-Sơn) thỉnh Ngài, Ngài nói : Ta với vua Tấn vốn có duyên lành từ trước nên mới được gặp nhau lại đây và chấp thuận theo lời mời. Vào ngày 23 tháng 11 năm đó, vua thiết lễ Trai Tăng cho 1000 vị Đại-Đức tại điện Kim-Thánh và chính vua xin thọ giới Bồ-Tát. Sau, vua cho lập tinh-xá tại núi Ngọc-Tuyền để Ngài giảng kinh truyền đạo. Các bộ kinh Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa và kinh Ma-Ha Chỉ-Quán đều được giảng tại chùa Ngọc-Tuyền.
Sau một thời gian hành đạo tại đấy, Ngài từ giả đồ chúng vào núi Thiên-Thai để tu niệm, nhưng vua cho người vào tận núi Thiên-Thai thỉnh Ngài về kinh đô để truyền bá Phật Pháp. Do lời khẩn khoản của vua theo lời sứ giả, Ngài phải trở lại Kim-Lăng một lần nữa. Vì tuổi già sức yếu, nên khi trên đường về mới tới Thạch-Thành thì bị phát bịnh Ngài liền tịch ngay tại đó, vào ngày 24 tháng 11 năm Khai-Hoàng thứ 17 (?) thọ được 60 tuổi.
Ngài là người khai sáng ra tông Thiên-Thai, một trong số 13 tông phái lớn của Phật giáo Trung-Quốc còn truyền thừa cho đến ngày nay, nên được người đời tôn xưng luôn tên Ngài là Thiên-Thai Trí-Giả Đại-sư.
******
Sách tham khảo :
- Thật dụng tối tân Phật học từ điển của nhà xuất bản Tân-Văn-Phong - Đài-Bắc.
- Cao-Tăng truyện.
- Betonamu no minsoku shoshi của Nobuhiro Matsumito. 1969.
****
17.- Cưu Ma La Thập Là Người Có Công GÌ Trong Phật Giáo ?
Cưu-Ma-La-Thập nói cho đủ là Cự-Ma-La-Thập-Bà, Cưu-Ma-La-Thời-Bà hay Cưu-Ma-La-Kỳ-Bà có nghĩa là Đồng-Thọ, tức có ý nói người tuổi trẻ nhưng chí lớn vô cùng.
Cha Ngài tên là Cưu-Ma-La-Viêm, người Thiên-Trúc, sau dời nhà đến nước Quy-Tư, kết hôn với em gái vua Quy-Tư sanh là La-Thập. Sau đó mẹ La-Thập xuất gia tu hành và chứng được đạo quả. Khi lên 7 tuổi La-Thập xuất gia theo mẹ và đi du phương tòng học tại nước Tây-Vức (Ấn-Độ), thấu suốt được chỗ thâm áo của Đại-thừa. Lúc bấy giờ nước Quy-Tư có loạn do vua Tần là Phù-Kiên, năm Kiến-Nguyên thứ 19 đem quân sang chinh phạt nước Quy-Tư. Tình thế bất an khiến La-Thập phải trở về cố quốc. Khi về đến đất Lương-Châu nghe tin Phù-Kiên bại trận bèn dừng lại đó. Sau đó vua Diêu-Tần đem binh khôi phục lại được đất Lương-Châu. La-Thập vào đất Trường-An để hành đạo, tiếng tăm lừng lẫy và được tôn làm bậc Quốc-sư, vua mời Ngài vào cung Tây-Minh-Cát và Triệu-Dao-Viên để ở dịch kinh. Ngài là người đầu tiên dịch nhiều bộ kinh nổi tiếng như Pháp-Hoa, Di-Đà Kinh trên 380 quyển còn truyền tới nay. Ngài tịch tại Trường-An năm thứ 11 đời Tần-Thỉ-Hoàng, niên hiệu Tấn-Khương-Ninh năm thứ 5 (410 ?)
Trong các bộ kinh do Ngài dịch, ở phần mở đầu có ghi : Diêu-Tần Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập, phụng chiếu dịch. (Đời Diêu-Tần, ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng theo lời vua để dịch), tức là lúc ở trong cung nhà vua thỉnh Ngài làm việc phiên dịch nầy.
Kinh điển Phật giáo lưu truyền ngày nay bằng chữ Hán là do công của hai ngài La-Thập và Huyền-Trang phiên dịch. Những kinh điển do ngài La-Thập dịch gọi là cựu dịch, còn kinh điển ngài Huyền-Trang dịch gọi là tân dịch. Tại sao cùng là văn tự chữ Hán lại phân cựu và tân ? Cựu ngoài cái nghĩa là lâu, còn có ý chỉ cho văn thể theo lối cổ, không được bóng bảy êm xuôi ; còn tân là văn hiện đại nên được nhiều người đọc hiểu.
Các kinh sách của Phật giáo được lưu truyền rộng rãi khắp Trung-Quốc, Nhật-Bản, Triều-Tiên, Việt-Nam ... một phần lớn đều do những người phiên dịch từ Phạn-văn sang Hán-văn mà ngài La-Thập là một trong số các nhà đại dịch giả lúc bấy giờ.
18.- Ngài Huyền Trang Có Công Gì Trong Phật Giáo ?
Trong bộ "Đại-Đường Tây-Vức Ký" có chép rằng một vị Thánh Tăng từ Đông-Độ sang Tây-Trúc thỉnh kinh Phật đã trải qua nhiều nguy hiểm, sau cùng cũng đạt được mục đích để trở về xứ sở trong vinh quang ròng rã suốt 16 năm, đó là ngài Đường-Tam-Tạng.
Ngài Huyền-Trang hay Đường-Tam-Tạng họ Trần, ở chùa Đại-Từ-Ân đời nhà Đường (618-907). Ngài xuất gia học Phật năm lên 13 tuổi ở chùa Tịnh-Độ đất Lạc-Dương. Sau tìm đến kinh đô Trường-An để tham học với các bậc cao đức như ngài Huệ-Hưu, Triệu-Châu ... nhưng chưa ngộ được chỗ thâm áo của các kinh luận nhiếp Đại-thừa, A-Tỳ-Đạt-Ma, Câu-Xá ... bèn tỏ ý muốn sang Ấn-Độ để tầm học. Không được chấp thuận, nhưng Ngài không thối chí, vào năm Trinh-Quán thứ 3, đời Đường-Cao-Tông (629) Ngài băng rừng, vượt núi, đi bộ trải qua hàng ngàn dặm đường khó khăn nguy hiểm suốt bốn năn ròng rã. Năm Trinh-Quán thứ 7 (632) Ngài mới tới được đất Ấn-Độ. Tại đây Ngài chiêm bái nhiều nơi Phật tích như chỗ đức Phật Đản-Sanh, nơi Phật nhập Niết-Bàn, vườn Lộc-Uyển và xứ Ma-Kiệt-Đà, nơi có cây Bồ-Đề và tòa kim-cương, chỗ đức Phật đã ngồi tu cho đến khi chứng quả khi xưa. Ngài cũng đến chiếm bái núi Kỳ-Xà-Quật, nơi kiết tập kinh điển lần thứ 2 và tinh-xá Trúc-Lâm là những nơi đất Thánh của Phật giáo. Sau cùng Ngài tới viếng chùa Na-Lan-Đà. Tại đây, Ngài được ngài Giới-Hiền nhận làm đệ tử và được học qua Luận Du-Già.
Ngài làm được cả thảy 3000 bài tụng phá đổ tà thuyết để lập chánh giáo, trong số đó có 1600 bài tụng bênh vực lý thuyết Đại-thừa để trả lời lại 700 bài tụng phá lập luận Đại-thừa tại Ấn-Độ lúc bấy giờ. Nhờ cuộc biện luận nầy thành công, Ngài được vua Giới-Nhật kính trọng rất thâm hậu và cho mở đại hội tại thành Khúc-Nữ. Ngài được mời làm chủ tọa đại hội. Ngài đăng đàn luận giải, chuyên tán dương luận Đại-thừa, nhưng không một ai trong đại hội bắt bẻ được những lời lẽ lý luận mạch lạc của nhà đại luận sự với nhiều sự biện bác giỏi như Ngài.
Sau đó, Ngài chia tay vua Giới-Nhật để trở về nước vào năm Trinh-Quán thứ 19 (645) đời Đường Thái-Tôn. Khi Ngài về tới kinh đô Trường-An có mang theo được cả thảy là 75 bộ kinh Phật bằng chữ Phạn hiến cho nhà vua. Được vua Thái-Tôn triệu Ngài đến ở chùa Hoằng-Phước để phiên dịch các bộ kinh nầy từ chữ Phạn sang chữ Hán. Vào đời vua Cao-Tông, niên hiệu Vĩnh-Triệt thứ ba cho thỉnh Ngài vào triều ở chùa Từ-Ân để giảng pháp. Năm Hiển-Thánh thứ tư, vua Cao-Tông lại cho xử dụng cung Ngọc-Hoa sửa lại thành chùa và mời Ngài về ở đó. Năm sau, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh Đại-Bát-Nhã tại đây.
Ngài tịch vào năm Kiền-Đức nguyên niên, ngày mồng 5 tháng 2 thọ được 65 tuổi.
Cuộc đời ngài Huyền-Trang gắn liền như một trang sử Phật giáo sáng chói do việc phiên dịch kinh điển. Ngài dịch được cả thảy là 75 bộ kinh gồm 1335 quyển. Những bản kinh của Ngài dịch, người sau gọi là "tân dịch", so với các bản dịch trước của ngài La-Thập thì có văn vẽ dễ hiểu.
*****
Tài liệu tham khảo :
Đại-Đường Tây-Vức Ký - Quảng-Hoằng-Minh tập Tục Cao Tăng truyện quyển 4 - Tam Tạng Pháp sư truyện - Phật tổ thống tải quyển 12 - Thật dụng tối tân Phật học tự điển - Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng-tọa Mật-Thể.
19.- Ngài Vô Ngôn Thông Và Phật Giáo Phái Thiền Tông Tại Việt Nam
Ngài Vô-Ngôn-Thông họ Trịnh, người Quảng-Châu, Trung-Quốc, xuất gia từ nhỏ ở chùa Song-Lâm (Chiết-Giang). Tánh tình điềm đạm, ít nói, nhưng hiểu tất cả mọi việc về sự lý, nên người đời đặt cho hiệu là Vô-Ngôn-Thông.
Năm Canh-Tý niên hiệu Nguyên-Hòa thứ 15 đời Đường (820) Ngài qua An-Nam, trú tại chùa Kiến-Sơ (tỉnh Bắc Ninh) trọn ngày lo việc thiền định. Chỉ có Cảm-Thành Thiền-sư biết được hạnh nguyện của bậc cao Tăng đắc đạo nên đem lòng kính phục và thờ làm bậc thầy.
Ngài tịch năm 826, niên hiệu Bảo-Lịch đời Đường. Trước khi tịch, Ngài có truyền thi kệ cho ngài Cảm-Thành Thiền-sư và dạy rằng :
Ngày xưa Tổ Sư là ngài Nam-Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại mấy lời:
"Nhất thiết chư pháp, giai tùng tâm sanh,
Tâm vô sở sanh, pháp vô sở đắc,
Nhược đạt tâm địa, sở trụ vô ngại,
Phi ngộ thượng căn, thận vật khinh hứa".
(Hết thảy các pháp đều do tâm sanh, nếu tâm không sanh, pháp cũng không thể có được ; khi hiểu được như thế thì làm việc gì cũng không trở ngại (với cái tâm ấy), nếu không gặp được người hiền tài thì chớ nên truyền bậy) nay ta cũng dặn lại ngươi câu ấy. Đọc xong kệ, Ngài an nhiên mà hóa.
Phái Thiền tông thứ nhất tại Việt-Nam do ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (580) làm Sơ tổ, đến đời ngài Vô-Ngôn-Thông (820) lại có thêm phái Thiền thứ hai do Ngài là Sơ tổ truyền pháp. Pháp phái dòng Thiền Vô-Ngôn-Thông truyền xuống được 15 đời. Danh hiệu và hành tích của những vị kế thừa cộng là 40 người. Đến đời cư sĩ Ứng-Thuận (1221) là người cuối của phái Thiền nầy.
Hiện tháp mộ của ngài Vô-Ngôn-Thông còn tại núi Tiên-Du, tỉnh Bắc-Ninh (Bắc Việt). Ngài là vị tổ đã đem lại nguồn Thiền Tư-Duy (meditation) cho người Phật tử Việt-Nam ngày nay.
20.- Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi Và Thiền Phái Của Ngài Tại Việt Nam
Theo sách "Cổ Câu Pháp Vân Phật Bổn Hạnh Ngữ Lục" và "Đại Nam Thuyền Uyển Tập Anh" chép : Vào đời Đông-Hán, niên hiệu Tả-Kiến (569-582) có một Pháp-sư tên là Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Ấn-Độ nhân biết có Phật giáo ở Nam-Việt liền qua trú tại chùa Pháp-Vân để giảng Phật Pháp.
Phật giáo bắt đầu thạnh hành từ đó. Ngoài ra, sách Tập-Anh còn dẫn lời ngài Thông-Biện Thiền-sư nói : "Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi là Sơ tổ của Thiền-tông ở nước ta". Ngài tên chữ Phạn là Vinitaruci, người Nam Thiên-Trúc, sang Tây Thiên-Trúc để tham khảo đạo Phật, nhưng cơ duyên chưa gặp, nên Ngài qua cõi Đông-Độ, tiến vào Trung-Quốc và đến đất Trường-An năm 574. Lúc bấy giờ Phật giáo ở Tàu đang bị bài xích, nhằm đời Võ-Đế Bắc-Chu. Ngài muốn qua đất Nghiệp (tỉnh Hồ-Nam bây giờ), may gặp được ngài Tăng-Xáng, Tổ thứ ba của Phật giáo Trung-Quốc, tu ở núi Tử-Không. Ngài liền đem lòng kính mộ và xin theo làm đệ tử, Tổ thuận cho và sau đó khuyên Ngài qua An-Nam mà tiếp độ chúng sanh, chớ không nên ở đây làm gì. Ngài bèn từ giả thầy ra đi đến Quảng-Châu, Ngài trụ tại chùa Chế-Chỉ và dịch bộ kinh "Tượng-Đầu Báo-Nghiệp Sai-Biệt" chữ Phạn sang chữ Hán, năm Canh-Tý, niên hiệu Đại-Tường thứ 2 vào đời nhà Chu (580), Ngài qua Nam Việt trụ trì ở chùa Pháp-Vân (tỉnh Hà-Đông), dịch bộ kinh "Tổng Trì". Uy danh Ngài chẳng bao lâu đã lừng lẫy khắp nơi. Vua Lý-Thái-Tông (1028 - 1054) sau có làm bài tán ngưỡng Ngài như sau:
Sáng tự nam lai quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo lăng già nguyệt
Phân phân bát nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền
Nghĩa:
Nhớ từ mới đến nước Nam
Nghe đồn sư vốn lòng ham mùi thuyền
Mở đường tin Phật khắp miền,
Xa xa hợp lại tâm nguyên một dòng
Lăng già (1) bóng nguyệt sáng trong
Đóa sen Bát Nhã (2) hương nồng nơi nơi
Bao giờ lại được gặp người
Cùng nhau trò chuyện cơ thời huyền vi !
Vào đời nhà Tùy, năm Quý Sữu niên hiệu Khai-Hoàng thứ 14 (594), Ngài truyền tâm ấn cho ngài Pháp-Hiền rồi tịch.
Theo sách Thiền-Uyển Tập-Anh, ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi người nước Thiên-Trúc qua Trung-Hoa vào năm Nhâm Ngọ (562), niên hiệu Đại Kiến thứ 6 nhà Trần, tại đất Trường-An.
Khi Phật giáo Trung-Quốc bị Võ-Đế dàn áp (574), ông đi về đất Hồ-Nam, nơi đây Tổ thứ 3 của Thiền-tông, ngài Tăng-Xáng đang lánh nạn và ẩn tu tại núi Tư-Không. Hai người đã có duyên Phật Pháp, Tổ khuyên Ngài nên đi về phương Nam, mà tiếp xúc với đồ chúng. Nghe lời Tổ, Ngài tới đất Quảng-Châu ở chùa Chế-Chỉ. Tại đây, Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi đã dịch được các bộ kinh như Tượng-Đầu Báo-Nghiệp Sai Biệt chữ Phạn sang chữ Hán. Vào năm 580, niên hiệu, Đại-Tường thứ hai, tháng 3 năm Canh-Tý, Ngài đến nước ta, trụ tại chùa Pháp-Vân và dịch bộ kinh "Tổng-Trì", rồi tịch vào năm 594. Khi Ngài đến ở chùa Pháp-Vân thì đã có một Thiền-sư người Việt-Nam tên là Quán-Duyên đang mở lớp dạy thiền cho tăng đồ tại đây. Ngài trụ tại đó trong một thời gian, sau chọn Thiền-sư Pháp-Hiền làm đệ tử. Ngài Pháp-Hiền vốn là học trò của ngài Quán-Duyên.
Việc truyền thừa của phái thiền Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi được cả thảy 19 thế hệ như sau:
1- Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi (594)
2- Pháp-Hiền (626)
3- Huệ-Nghiêm (?)
4- Thanh-Biện (686) HUỆ-SINH (?)
5- Khuyết-Lục
6- Khuyết-Lục
7- Long-Tuyền
8- Định-Không (808) 2 người khuyết lục
9- Thông-Thiện (?) 2 người khuyết lục
10- La-Quý-An (936): - Pháp-Thuận (991) - Mahamaya (1029) - 1 người khuyết lục
11- Thiền-Ông (979): - Sùng-Phạm (1087)
- 2 người khuyết lục
12- Vạn-Hạnh (1018):
- Định-Tuệ (?)
- Đạo-Hạnh (1112)
- Trì-Bát (1117)
- Thuần-Chân (1101)
- 2 người khuyết lục
13- Huệ-Sinh (1063): - Thiên-Nham (1163)
- Minh-Không (1141) - Bản-Tịch (1140)
- 2 người khuyết lục.
14- Khánh-Ty (1142): - 4 người khuyết lục
15- Giới-Không (?): - Pháp-Dung (1174)
- 1 người khuyết lục
16- Nhất-Trí (?): Chân-Không (1100) -
- Đạo-Lâm (1203)
17- Diệu-Nhân (1113): - Viên-Học (1136)
- Tĩnh-Thiền (1193) - 1 người khuyết lục
18- Viên-Thông (1151): 1 người khuyết lục
19- Y-Sơn (1213): - 1 người khuyết lục.
********
(1) Lăng-già: Phật Lăng-Già ở bờ bể Nam-Hải, theo tiếng Trung-Hoa là không thể đến nơi được mà chỉ có bậc chân tu mới nhìn thấy được, chứng và đạt ngộ.
(2) Bát-Nhã: tức trí tuệ dùng để chỉ cho bậc đã giác ngộ sáng suốt.
*********
Sách tham khảo :
Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Mật-Thể
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn-Lang
21.- Ngài Khương Tăng Hội Với Thiền Tông Tại Việt Nam
Ngài Khương-Tăng-Hội là vị Tổ khai sáng phải Thiền đầu tiên tại Việt-Nam vào đầu thế kỷ thứ 3 Tây lịch.
Theo sách "Cao Tăng Truyện", Khương-Tăng-Hội cha mẹ mất sớm lúc mới lên 10 tuổi. Khi lớn lên Tăng-Hội xuất gia tu Phật rất tinh tấn. Vốn người Thiên-Trúc, nhưng ông rất giỏi tiếng Việt, do đó được nhiều người tin kính. Sau khi đã ở Việt-Nam một thời gian, Ông đến đất Nghiệp thuộc nước Ngô (tức Nam-Kinh) vào năm Xích-Ô thứ 10, Tây lịch năm 255, và ở lại đấy cho tới khi mất vào năm 280, niên hiệu Thái-Khương năm thứ nhất, đời nhà Tấn.
Tư tưởng Thiền của Khương-Tăng-Hội đã được kinh "Tứ-Thập-Nhị Chương" nói tới trong đoạn mở đầu : "Quán thiên địa, niệm vô thường", là một phép thiền quán về lý vô thường của vũ trụ vạn hữu. Ngoài ra, trong bài tựa của sách (An Ban Thủ Ý Kinh), Tăng- Hội nói : "Trong thời gian búng ngón tay, tâm ý ta có trải qua 960 lần chuyển niệm : Trong thời gian một ngày một đêm, ta có thể trải qua 13 ức ý niệm. Dùng phương pháp đếm hơi thở ... ta có thể khử bỏ 13 ức ý niệm không trong sạch ấy", vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý KHÔNG và CHÂN NHƯ của Đại-thừa Phật giáo mà Khương-Tăng-Hội đã nói về tâm : Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không tiền hậu, tâm thâm sâu vi tế không tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm-Thiên, Đế-Thích và các Tiên Thánh khác cũng không thể thấy được. Kẻ phàm tục không thể thấy được sự hóa sinh từ hình thức này sang hình thức khác của các chủng tử, khi thì minh hiển, khi thì trầm mặc trong tâm. Đó gọi là "ấm" vậy".
Chính ngài Khương-Tăng-Hội đã chỉ cái diệu tâm như bản thể giác ngộ của Thiền Đại-thừa. Ngài mở màn ngành Thiền bằng cách nói về cái tâm uyên nguyên, cũng như cái "Chân Như" của vạn pháp mà Phật giáo Việt-Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng này trong mấy thế kỷ đầu, lúc Phật giáo mới du nhập vào nước ta.
Vào giữa thế kỷ thứ 10 đất nước ta lật qua một trang sử mới, vua Đinh-Tiên-Hoàng đã dẹp yên được giặc giả, và đồng thời là thời điểm ra đời của ngài Khuông-Việt.
Ngài sinh năm 930 tại thôn Cát-Lỵ, quận Thường-Lạc, họ Ngô tên Chân-Lưu và là bà con với vua Thuận-Đế.
Lúc nhỏ theo học Nho, sau ngài theo học Phật với Thiền-sư Vân-Phong tại thiền đường Khai-Quốc-Tự. Năm Ngài 30 tuổi được Bổn-Sư truyền y bát và từ đó trở thành Tổ thứ 40 của dòng thiền phái Vô-Ngôn-Thông.
Năm Thái-Bình nguyên niên (970) vua Đinh-Tiên-Hoàng thỉnh Ngài vào cung giảng đạo. Được học phép mầu vi diệu, vua đem lòng kính phục và sắc phong ngài làm Tăng-Thống. Việt-Nam, lần đầu tiên một Thiền-sư mang chức Tăng-Thống trong lịch sử Phật giáo bắt đầu từ đấy.
Đến đời vua Lê-Đại-Hành, Đại-sư Khuông-Việt (chức vị do vua Đinh ban sau khi nhận chức Tăng-Thống) cùng với ngài Đỗ-Thuận Pháp-sư và Thiền-sư Vạn-Hạnh đã giúp vua Lê kế hoạch phá tan quân xâm lăng nhà Tống.
Cuối đời Lê-Đại-Hành, Ngài lui về núi Du-Kỷ dựng chùa, dạy chúng và học trò theo học rất đông. Trong số đó nổi tiếng có ngài Đa- Bảo, nên sau được truyền y bát.
Ngài tịch vào ngày 15 tháng 2 năm Thuận-Thiên thứ 2 (1011). Trước khi biết mình sắp vào Niết-bàn, Ngài họp đại chúng lại rồi ngồi kiết già tọa thiền, đọc bài thị kệ và yên lặng mà hóa. Ngài trụ thế được 82 năm.
23.- Ngài Mãn Giác Thiền Sư, Quê Hương Và Bút Tích
Mãn-Giác Thiền-sư tên là Nguyễn-Tràng, người xã An-Cách, thôn Lũng-Triều, tại Bắc-Việt, sanh vào cuối thế kỷ XI. Con trai quan Trung-Thư Viên-ngoại-lang tên là Nguyễn-Hoài-Tố.
Khi vua Nhân-Tông (1072-1127) chưa trị vì, có tuyển con nhà danh giá vào làm thị vệ, ông được trúng tuyển. Nhưng sau khi vua lên ngôi thì ông lại đi tu, thực hành theo hạnh du phương bố giáo (đem giáo pháp ban bố đến các nơi cho mọi người được thấm nhuần Phật đạo). Suốt ngày, chỉ giử một bình bát và một gậy trúc, Ngài chu du khắp thiên hạ, đi tới đâu Ngài cũng được tôn kính, cúng dường. Trước khi tịch Ngài có để lại bài kệ như sau:
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thương lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tân
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch nghĩa:
Cáo bịnh để dạy bảo chúng
Xuân đi hoa rụng tơi bời,
Xuân về hoa lại tươi cười nở hoa
Việc theo trước mắt trôi qua,
Mái đầu điểm tuyết, cái già theo chân
Đừng lo hoa rụng hết xuân
Đêm qua mai nở trước sân một cành.
Lý vô thường đã được dùng để diễn tả việc đời đi đến đến di thật đúng mức. Mọi việc đều qua đi và chỉ còn lại có một, đó là cái chân tinh thần sáng sạch như gương, nếu không tu hành thì chúng ta khó mà đạt đến.
24.- Ngài Nguyên Thiều, Dòng Dõi Và Truyền Pháp
Ngài họ Tạ, quê ở Trinh-Hương, huyện Triều-Châu, tỉnh Quảng-Đông. Ngài xuất gia năm 19 tuổi tu ở chùa Báo-Tư, thọ giáo với ngài Bổn-Khoa Khoán-Viên Hòa-Thượng.
Niên hiệu Cảnh-Trị năm thứ ba đời Lê-Huyền-Tôn (năm Ất-Tỵ thứ 17 đời chúa Nguyễn-Phúc-Tần 1665), Ngài theo tàu buôn qua An-Nam (tên nước ta lúc bấy giờ), trụ ở Bình-Định và lập chùa Thập-Tháp Di-Đà, cũng như mở trường đào tạo tăng tài, rồi ra Thuận-Hóa lập chùa Hà-Trung, Ngài đến Huế lập chùa Quốc-Ân và dựng tháp Phổ- Đồng (tháp đã bị quân Tây-Sơn phá hủy).
Sau Ngài về lại Quảng-Đông mời được Thạch-Liêm Hòa-Thượng và nhiều vị danh tăng khác, cũng như thỉnh được một số kinh điển tượng khí đem sang nước ta. Chúa Nguyễn-Phúc-Trăng (1687-1691) liền sắc mở giới đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên-Mụ (Huế). Ngoài ra, chúa Nguyễn còn sắc ban cho Ngài chức trụ trì chùa Hà-Trung. Dấu chân hoằng hóa của Ngài từ miền Trung Trung-phần ra Bắc Trung-phần, ở những nơi nào có trường đào tạo tăng tài đều được Ngài lưu tâm trợ lực. Ngài rất có công đối với việc chấn hưng Phật-giáo miền Trung, cũng như lãnh chủ giảng Phật Pháp cho chư tăng, ni, tín-đồ tại Huế trong nhiều năm, nhất là Tăng Học-Đường chùa Báo-Quốc.
Trước khi tịch Ngài còn để lại bài thị kệ để nhắc nhở đồ chúng như sau:
Tịch Tịch cảnh vô ảnh
Minh minh châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không
Tạm dịch:
Pháp thân sáng sạch như gương,
Minh châu ngọc báu tỏ tường làu thông
Hiển bày sự vật ngàn muôn
Tánh không vắng lặng in tuồng là không
Ngài tịch ngày 19 tháng 10 niên hiệu Bảo-Thái thứ 10, nhà Lê. Đệ tử Ngài họp nhau lại xây tháp Hóa-Môn để dung nạp hài cốt (tháp này hiện vẫn còn ở làng Dương-Xuân-Thượng, Thuận-Hóa) phụng thờ.
25.- Ngài Liễu Quán Dòng Dõi Và Phó Pháp Ra Sao ?
Ngài Liễu-Quán họ Lê, húy Thiệt-Diệu, người làng Bạc-Mã, huyện Đồng-Xuân, tỉnh Phú-Yên (sông-Cầu), Trung Việt.
Lúc 6 tuổi mồ côi mẹ, cha đem đến chùa Hội-Tôn cho thọ giới với ngài Tế-Viên Hòa-Thượng (người Tàu). Sau Ngài ra Thuận-Hóa (Thừa- Thiên) xin theo học với Hòa-Thượng Giác-Phong chùa Báo-Quốc. Năm Tân-Mùi (1691), Ngài phải trở về phụng dưỡng cha già trong việc đốn củi để kiếm tiền giúp đỡ việc chi tiêu trong gia đình. Năm Ất Hợi (1695) cha chết, Ngài lại trở ra Huế thọ giới Sa-di với ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm Đinh Sửu (1697) Ngài thọ giới Tỳ-kheo với Hòa-Thượng Từ-Lâm. Ngài tìm đến các vị Hòa-Thượng giỏi để học đạo thiền. Từ năm 1699 cho tới năm 1702 (Nhâm Ngọ) mới gặp được ngài Minh-Hoằng Tử-Dung để xin theo học phép tham thiền. Được Hòa-Thượng dạy câu : Vạn pháp qui nhất, nhứt qui hà xứ (muôn pháp đều qui về một, một qui về đâu ?) Ngài tham cứu câu này ròng rã suốt 8, 9 năm mà chưa tỏ ngộ được, nên luôn luôn cảm thấy hỗ thẹn. Nhưng nhân duyên đến, Ngài nhân đọc truyện (Truyền-Đăng-Lục) đến câu "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ", thoạt nhiên ngộ được chân tâm. Năm Mậu Tý (1708) Ngài trở ra Huế để cầu Hòa-Thượng ấn chứng.
Hòa-Thượng (Minh-Hoằng) đọc câu : Huyền thời triệt thủ, tự khang thừa đương, tuyệt hậu tái tô khi quân bất đắc,
nghĩa là : Phải bước ra bỏ vỏ mà buông tay, chết sống tự mình chịu lấy, ngất đi mà sống lại mới khỏi bị người dối gạt.
Liền đó, Ngài vỗ tay cười.
Hòa-Thượng bảo : Chưa nhằm.
Ngài đáp : Bình trung nguyên thị thiết : Trái cân vốn là sắt.
Hòa-Thượng lại bảo : Chưa nhằm.
Ngày hôm sau, Hòa-Thượng gọi Ngài đến bảo : Chuyện ngày qua chưa xong, nói lại xem ?
Ngài đáp : Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời : Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.
Bấy giờ Hòa-Thượng mới khen ngợi ...
Năm Nhâm Tý (1742) Ngài dặn dò môn đồ bài kệ sau đây rồi tịch :
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệt dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông
Nghĩa:
Ngoài bảy mươi năm trong thế giới,
Không không sắc sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ,
Nào phải ân cần hỏi tổ tông.
26.- Vua Trần Nhân Tông Có Công Gì Với Phật Giáo ?
Vua Trần-Nhân-Tông là Thái-tử Khâm-Tín, con vua Trần-Thánh-Tông. Lên trị vì năm 1278, lúc Ngài mới 16 tuổi.
Vua Nhân-Tông rất sùng tín đạo Phật, nên khi được cha truyền ngôi, bèn cố tìm cách từ chối để nhường ngôi cho em, nhưng không được. Sau đó Ngài trốn triều thần vào núi Yên-Tử tìm thầy học đạo thiền nhưng vua cha hay tin, cho người đi đón về triều để đưa lên ngôi Thiên Tử. Ở ngôi báu Ngài vẫn quyết chí tu hành và lo truyền bá Phật Pháp.
Tuệ-Trung Thượng-sĩ Thiền-sư là thầy học nên Ngài rất chuyên tâm vào việc tu thiền.
Năm 1293, Ngài truyền ngôi cho con là Anh-Tông để rãnh rỗi hầu lo việc tu niệm lúc về già. Đến năm 1299, Ngài quyết từ giả hoàng cung để thực hiện xuất gia. Vào tu ở núi Yên-Tử, Ngài lấy hiệu là Hương-Vân Đại-đầu-đà. Số tín đồ theo học đạo thiền với Ngài rất đông có tới hàng vạn người.
Từ đó phái Trúc-Lâm Yên-Tử trở thành một phái thiền đặc biệt thuần túy Việt-Nam, do Ngài sáng lập.
Ngày nay trong lịch sử Phật giáo Việt-Nam khi nhắc tới tên của một người đã biết áp dụng đạo Phật đúng mức để tu hành đắc đạo, người ta phải nêu danh vua Trần-Nhân-Tông như là một vì sao sáng.
27.- Vua Lý Nhân Tông Đã Tán Ngưỡng Ngài Vạn Hạnh Thiền Sư Thế Nào Qua Thi Văn ?
Trong lịch sử Việt-Nam, đời Lý (1010-1225) là thời kỳ thái bình thịnh trị nhất, Phật giáo được xem như là Quốc giáo. Vạn-Hạnh Thiền-sư là nhân vật sáng giá trong giai đoạn này.
Vua Nhân-Tông húy là Kiền-Đức hay Càng-Đức (1072-1127), tánh nhân từ và hiếu hạnh. Ngài là con vua Thái-Tông (1028-1054), lên kế vị vua Thánh-Tông. Vua Thánh-Tông (1054-1072) đồng thời là một vị đạo sĩ, bỏ ngôi đi tu và đắc đạo. Ngài là Sơ tổ phái Thảo-Đường tại Việt-Nam. Do đó, Nhân-Tông lên ngôi lúc còn nhỏ, nhưng rất thông minh, anh dũng, lại hâm mộ đạo Phật. Lúc bấy giờ ngài Vạn-Hạnh là một tay cự phách giúp triều đình việc trị quốc an dân. Bài thơ Lý-Nhân-Tông làm để tặng ngài Vạn-Hạnh như sau :
Tặng tăng Vạn-Hạnh
Vạn-Hạnh dung tam tế (1)
Chân phù cở sấm thi
Lạng khai danh Cổ-Pháp
Quải tích (2) trấn Vương Kỳ
Nghĩa là : Sư Vạn-Hạnh hiểu thấu được cả thiên văn, địa lý, và nhân tình, thế sự (tam tế), thực phù hợp với câu sấm cổ. Quê nhà sư ở làng Cổ-Pháp thuộc tỉnh Bắc-Ninh, nhưng luôn luôn chống gậy nhà tu trấn giữ kinh đô nhà vua.
Thơ tặng sư Vạn-Hạnh
Thiền sư Vạn-Hạnh tuyệt vời
Dung hòa ba cõi in lời sấm thi
Quê làng Cổ Pháp gần kia,
Gậy tu trấn giữ Vương Kỳ từ lâu.
Vua Nhân-Tông kế nghiệp nhà Lý, đã làm cho quốc gia được hưng thịnh, đạo Phật phát triển huy hoàng. Vua ở ngôi được 55 năm và mất năm 1127, thọ được 63 tuổi.
*********
Chú thích :
(1) Tam tế : trời, đất, và người
(2) Tích : gậy của nhà tu, còn gọi là tích trượng
28.- Thiền Sư Không Lộ Sự Truyền Đạo Và Hành Trạng Ra Sao ?
Ngài Không-Lộ họ Dương, người Hải-Thanh (Bắc-Việt), đã mấy đời chuyên về nghề đánh cá, nhưng đến đời ông lại đổi nghề để sang học đạo thiền Phật giáo.
Ông kết bạn với Thiền-sư Giác-Hải, trụ trì chùa Hà-Trạch. Cả hai và nhất là ngài Không-Lộ rất giỏi về pháp thuật nhà chùa, như ứng hiện những truyện lạ kỳ mà người đời rất khó lường được, do đó tiếng tăm Ngài được nhiều người biết đến. Ngài mất vào khoảng niên hiệu Hội-Tường và Đại-Khánh (?), còn để lại bài thơ "Ngôn Hoài" sau đây :
Ngôn Hoài
Cư đắc long đà địa khả cư
Đa tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trúc thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhứt thanh hàm thái hư.
Nghĩa : Chọn được nơi nhiều rồng rắn vẫn có thể ở được. Tối ngày vui với cảnh thôn dã không gì hơn, có khi leo lên đỉnh núi thở dài một tiếng, làm lạnh cả bầu trời.
Dịch theo văn vần :
Đất rồng rắn ở vẫn ung dung,
Vui thú thâu ngày dạo cảnh đồng.
Có lúc trèo lên đầu núi đứng,
Kêu dài một tiếng lạnh bầu không.
Tại chùa Keo làng Dũng-Nghĩa, tỉnh Thái-Bình có thờ tượng ngài Không-Lộ, pho tượng bằng gỗ trầm hương không sơn phết, quanh năm mùi trầm bốc lên thơm ngào ngạt khắp chùa ! Theo truyền thuyết, pho tượng không phải do người đời tạc, mà khi Ngài tịch hóa thành Thánh tượng. Do sự linh ứng đó, ngôi chùa Keo còn mang tên Thần-Quang-Tự là vì vậy.
Được biết pho tượng ngài Không-Lộ hiện nay, dưới chế độ cộng sản cũng đã bị giam vào trong cung cấm. Có người còn cho hay rằng mặt mũi chân tay Ngài khác thường lắm !
29.- Giám Trai Sứ Giả Là Ai ? Các Chùa Thờ Hình Ngài Tượng Trưng Gì ?
Khi vào các chùa, nơi trai đường (phòng ăn của chư Tăng) ta thường thấy hình tượng của một người chống búa đứng trong tư thế đang nghỉ ngơi, đó là ngài Giám Trai.
Giám Trai là một bậc thiên thần coi sóc, giám hộ việc ăn uống cho Tăng chúng. Vì Ngài thường lân mẫn làm việc công đức, nên được tôn xưng là Giám-Trai sứ giả Bồ-Tát. Ngài thay thế các vị Bồ-Tát như một đặc phái đến thử hộ (giữ gìn) chốn già lam (chùa). Trong nghi thức cúng ngọ có danh hiệu của Ngài và mỗi khi chư Tăng dùng ngọ trai đều vái niệm để cầu nguyện cho chùa được cát tường. Sự tích Ngài phát xuất từ đâu không ai rõ, nhưng Phật giáo Trung-Hoa, nhất là những chùa Tăng-học-viện, đều có thờ tôn tượng nơi phòng thọ trai. Ở Việt-Nam có lẽ cũng chịu ảnh hưởng theo Phật giáo Trung-Hoa, hình tượng Ngài có một số chùa đúc tạo để chiêm bái. Tác giả có ở và đến thăm nhiều chùa Nhật, nhưng không thấy thờ hình tượng Ngài, tuy nhiên theo bộ Phật giáo đại từ điển của Chức-Điền Đắc-Năng (cách đọc) nơi trang 215, có tả diện mạo Ngài như sau : "Giám-Trai Sứ-Giả là một thần nhân giám hộ việc ăn uống cho chư Tăng. Ở các chùa Trung-Hoa gọi là Giám-Trai Bồ-Tát. Ngài mặt xanh, tóc đỏ" (Đông-Kinh, Đại-Tạng xuất bản lần thứ V ngày 20/1/80).
Chỉ cần đọc tên Ngài cũng đủ nói lên được ý nghĩa là kẻ hổ trợ việc trai đường rồi. Khi nào gặp tôn tượng vị Bồ-Tát như đã diễn tả thờ ở nhà trai của chùa, chúng ta rất dễ nhận ra được.
30.- Một Danh Tăng Làm Chấn Động Cả Thế Giới Trong Thời Cận Đại : Hư Vân Lão Hòa Thượng
Sau thế chiến thứ hai, trong giới Phật giáo không ai là không nghe đến tên tuổi của bậc cao tăng tài đức Trung-Hoa, ngài Hư-Vân Lão Hòa-Thượng.
Hư-Vân là pháp hiệu, còn tên Ngài là Cổ-Nghiêm và họ Tiêu, người làng Tương-Châu tỉnh Hà-Nam. Cha Ngài làm quan Tri-phủ ở Tuyền-Châu thuộc tỉnh Phúc-Kiến. Ngài sanh vào ngày 30 tháng 7 (Bính Ngọ) năm 1846, niên hiệu Đạo-Quang năm thứ 26, đời nhà Thanh.
Mang tâm niệm xuất gia từ nhỏ, và xin phép cha Ngài không chấp thuận. Năm lên 18 tuổi Ngài bèn trốn gia đình vào chùa thọ giới xuất gia với ngài Diệu-Liên. Từ khi được thầy nhận làm đệ tử, Ngài tinh tấn tu hành theo lối khổ hạnh, từ Đông chí Hạ chỉ dùng một cái nón và một chiếc võng duy nhất hộ thân, thức ăn bằng cây rừng, thức uống bằng suối nước thiên nhiên, suốt trong 3 năm liên tục kiên trì, cho đến nổi râu tóc Ngài mọc dài ra trông tướng người dữ tợn.
Qua năm thứ 4, Ngài 22 tuổi, xin thầy vào núi Thiên-Thai học đạo với ngài Hoa-Đình Pháp-sư. Được lão Pháp-sư dạy cho phương pháp tu thiền định và Ngài thâm nhập say mê theo pháp tu quán trong mười năm. Hạnh tu nhập thất của Ngài có một không hai trong thời cận đại. Ở trong thất có khi một thất, khi ba, bốn thất, hoặc bảy - tám thất cũng có khi Ngài ở luôn trong thất suốt ba tháng mới xuất định. Theo như lời truyền lại, lúc nhập thất Ngài quên cả ăn mà sức khỏe vẫn bình phục, có lẽ do sức kiên định trong nhiếp tâm tu thiền. Do đó, tiếng tăm Ngài lừng lẫy khắp nơi, đến nỗi Trung-cộng sợ uy danh Ngài, nên khi chiếm được vùng Hoa-Nam, đã bắt nhốt và tra ấn Ngài thời gian 3, 4 tháng, chẳng cho ăn uống mà tinh thần Ngài vẫn không hề nao núng đổi thay !
Đối với Cộng-sản, Ngài chỉ có một tội là tội ưa tham thiền nhập định. Thấy uy hiếp tinh thần nhà tu hành chay lạt không thành, Cộng-sản bèn nới tay cho Ngài hành đạo. Môn đồ, đệ tử Ngài độ được rất đông.
Ngài tịch vào ngày 13 tháng 9 năm 1959 tại chùa Vân-Môn, tỉnh Quảng-Đông. Hưởng thọ 113 tuổi.
Trong khoảng từ 1960 đến 1965 các tờ báo Phật giáo tại Việt-Nam, như tờ Từ-Quang (Nguyệt San) do ông Mai-Thọ-Truyền, hội Phật-Học Nam-Việt chủ trương, có viết liên tục nhiều loạt bài nói về công hạnh, đạo đức tu chứng và những điều huyền diệu về cuộc đời tu hành của vị cao tăng thoát tục trong thời đại hổn loạn lúc đó, để giới thiệu Ngài như một ngôi sao sáng cho hàng Phật tử Việt-Nam.
Có thể nói, Ngài là một Thánh Tăng hay vị Bồ-Tát hóa thân ra đời để dập tắt lửa tham lam, hận thù, lòng si mê ... nên chẳng hề thay đổi trước uy quyền, thế lực !