Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 20: Thời gian và thay đổi

18/07/201102:02(Xem: 4062)
Chương 20: Thời gian và thay đổi

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XX
THỜI GIAN VÀ THAY ĐỔI

Tôi muốn nói một chút về thời gian là gì, bởi vì tôi nghĩ sự phong phú, vẻ đẹp và ý nghĩa của cái không-thời gian, của sự thật, có thể được trải nghiệm chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ toàn qui trình của thời gian. Rốt cuộc, chúng ta đang tìm kiếm, mỗi người theo cách riêng của anh ấy, một ý thức của hạnh phúc, của phong phú. Chắc chắn một sống có ý nghĩa, những phong phú của hạnh phúc trung thực, không thuộc thời gian. Giống như tình yêu, một sống như thế là không-thời gian; và muốn hiểu rõ cái không-thời gian, chúng ta không được tiếp cận nó qua thời gian nhưng trái lại hiểu rõ thời gian. Chúng ta không được sử dụng thời gian như một phương tiện đạt được, nhận ra, hiểu rõ cái không-thời gian. Đó là điều gì chúng ta đang làm trong hầu hết cuộc đời của chúng ta; dùng thời gian trong cố gắng để nắm bắt cái không- thời gian, vì vậy rất quan trọng phải hiểu rõ điều gì chúng ta có ý trình bày qua từ ngữ thời gian, bởi vì tôi nghĩ rằng được tự do khỏi thời gian là điều có thể thực hiện được. Rất quan trọng phải hiểu rõ thời gian như một tổng thể và không phải từng phần.

Thật lý thú khi nhận ra rằng, sống của chúng ta hầu như được sử dụng trong thời gian – thời gian, không trong ý nghĩa của sự tuần tự, của những phút, những giờ, những ngày và những năm, nhưng trong ý nghĩa của ký ức thuộc tâm lý. Chúng ta sống dựa vào thời gian, chúng ta là kết quả của thời gian. Cái trí của chúng ta là sản phẩm của nhiều ngày hôm qua và hiện tại chỉ là con đường của quá khứ đi đến tương lai. Cái trí của chúng ta, những hoạt động của chúng ta, thân tâm của chúng ta được thành lập trên thời gian; nếu không có thời gian chúng ta không thể suy nghĩ, bởi vì suy nghĩ là kết quả của thời gian, suy nghĩ là sản phẩm của nhiều ngày hôm qua và không có suy nghĩ nếu không có ký ức. Ký ức là thời gian; bởi vì có hai loại thoài gian, thời gian tâm lý và thời gian tuần tự. Có thời gian như ngày hôm qua theo đồng hồ và như ngày hôm qua theo ký ức. Bạn không thể phủ nhận thời gian theo tuần tự; điều đó sẽ vô lý – bạn sẽ nhỡ chuyến xe lửa của bạn. Nhưng liệu thực sự có bất kỳ thời gian nào tách rời khỏi thời gian tuần tự? Chắc chắn có thời gian như ngày hôm qua, nhưng liệu có thời gian như khi cái trí suy nghĩ về nó? Liệu có thời gian tách khỏi cái trí? Chắc chắn rằng thời gian, thời gian tâm lý, là sản phẩm của cái trí. Nếu không có sự hình thành của suy nghĩ, sẽ không có thời gian – thời gian chỉ là ký ức như ngày hôm qua cùng với ngày hôm nay, mà định hình ngày mai. Đó là, ký ức của trải nghiệm hôm qua phản ứng đến hiện tại đang đúc khuôn tương lai – mà vẫn còn trong qui trình của tư tưởng, một con đường của cái trí. Qui trình tư tưởng tạo ra sự tiếp diễn thuộc tâm lý trong thời gian nhưng liệu nó có thực sự, thực sự như thời gian tuần tự hay không? Và liệu chúng ta có thể sử dụng thời gian thuộc cái trí đó như một phương tiện để hiểu rõ cái vĩnh cửu, cái không-thời gian? Như tôi đã nói, hạnh phúc không thuộc ngày hôm qua, hạnh phúc không là sản phẩm của thời gian, hạnh phúc luôn luôn trong hiện tại, một trạng thái không-thời gian. Tôi không biết liệu bạn có nhận thấy rằng khi bạn có sự ngây ngất, một hân hoan sáng tạo, một loạt những đám mây rực rỡ bị phủ quanh bởi những đám mây đen kịt, trong khoảnh khắc đó không có thời gian: chỉ có hiện tại tức khắc. Cái trí, chen vào sau trải nghiệm trong hiện tại, nhớ lại và ao ước tiếp tục nó, tập hợp nhiều hơn và nhiều hơn về chính nó, vì vậy đang tạo tác thời gian. Vì vậy thời gian được tạo ra bởi ‘nhiều hơn’; thời gian là kiếm được và thời gian cũng là tách rời, mà vẫn còn là một kiếm được của cái trí. Vì vậy chỉ kỷ luật cái trí trong thời gian, quy định suy nghĩ bên trong cái khung của thời gian, mà là ký ức, chắc chắn không bộc lộ cái không-thời gian.

Thay đổi có là một vấn đề của thời gian hay không? Hầu hết chúng ta quen thuộc khi suy nghĩ rằng thời gian là cần thiết cho sự thay đổi: tôi là cái gì đó, và muốn thay đổi tôi là gì thành tôi nên là gì cần đến thời gian. Tôi tham lam, với những hậu quả của tham lam là tạo ra hoang mang, thù địch, xung đột, và đau khổ; để tạo ra sự thay đổi mà là không-tham lam, chúng ta nghĩ thời gian là cần thiết. Đó là nói rằng, thời gian được coi như một phương tiện của tiến hóa đến cái gì đó to tát hơn, của trở thành cái gì đó. Vấn đề là như thế này: người ta bạo lực, tham lam, ganh tị, tức giận, hiểm độc hay đam mê. Để thay đổi cái gì là, thời gian có cần thiết hay không? Trước hết, tại sao chúng ta muốn thay đổi cái gì là, hay tạo ra một thay đổi? Tại sao? Bởi vì chúng ta là gì không gây thỏa mãn cho chúng ta; nó tạo ra xung đột, bực bội, và, bởi vì không thích trạng thái đó, chúng ta muốn cái gì đó tốt lành hơn, cái gì đó cao quí hơn, cái gì đó lý tưởng hơn. Thế là chúng ta khao khát sự thay đổi bởi vì có đau khổ, phiền muộn, xung đột. Xung đột có được khuất phục bởi thời gian hay sao? Nếu bạn nói nó sẽ được khuất phục bởi thời gian, bạn vẫn còn trong xung đột. Bạn có lẽ nói nó sẽ mất hai mươi ngày hay hai mươi năm để thay đổi xung đột, để thay đổi cái gì bạn là, nhưng trong suốt thời gian đó bạn vẫn còn trong xung đột và vì vậy thời gian không tạo ra sự thay đổi. Khi chúng ta sử dụng thời gian như một phương tiện của đạt được một chất lượng, một đạo đức hay một trạng thái của tồn tại, chúng ta chỉ đang trì hoãn hay lẩn tránh cái gì là; và tôi nghĩ rất quan trọng phải hiểu rõ điều này. Tham lam hay bạo lực gây ra đau khổ, hỗn loạn trong thế giới của sự liên hệ với một người khác của chúng ta, mà là xã hội; và vì ý thức được sự hỗn loạn này, mà chúng ta gọi là tham lam hay bạo lực, chúng ta nói với chính chúng ta, ‘Tôi sẽ thoát khỏi nó trong thời gian. Tôi sẽ luyện tập không-bạo lực, tôi sẽ luyện tập không-ganh tị, tôi sẽ luyện tập hòa bình.’ Bây giờ, bạn muốn luyện tập không-bạo lực bởi vì bạo lực là trạng thái của bực bội, xung đột, và bạn nghĩ rằng trong thời gian bạn sẽ có được không-bạo lực và khuất phục được xung đột. Điều gì thực sự đang xảy ra? Bởi vì ở trong một trạng thái xung đột bạn muốn đạt được một trạng thái trong đó không có xung đột. Bây giờ trạng thái không-xung đột đó là kết quả của thời gian, của một khoảng thời gian? Chắc chắn là không; bởi vì, trong khi bạn đạt được một trạng thái không-bạo lực, bạn vẫn còn đang bạo lực và vì vậy vẫn còn xung đột.

Vấn đề của chúng ta là, liệu một xung đột, một phiền muộn, có thể được khuất phục trong một chu kỳ của thời gian, cho dù nó là ngày, năm hay là cuộc sống? Điều gì xảy ra khi bạn nói, ‘Tôi sẽ luyện tập không-bạo lực suốt một chu kỳ nào đó của thời gian’? Chính luyện tập đó chỉ ra rằng bạn đang trong xung đột, đúng chứ? Bạn sẽ không luyện tập nếu bạn không đang kháng cự lại xung đột; bạn nói sự kháng cự lại xung đột là cần thiết để khuất phục xung đột, và bạn phải có thời gian cho sự kháng cự đó. Nhưng chính sự kháng cự lại xung đột là một hình thức của xung đột. Bạn đang tiêu hao năng lượng của bạn khi kháng cự lại xung đột trong hình thức của cái gì bạn gọi là tham lam, ganh tị hay bạo lực nhưng cái trí của bạn vẫn còn trong xung đột, vì vậy rất quan trọng phải thấy được sự giả dối của qui trình lệ thuộc vào thời gian như một phương tiện để khuất phục bạo lực, và thế là được tự do khỏi qui trình đó. Thế là bạn có thể là cái gì bạn là: một bực bội thuộc tâm lý mà là chính bạo lực.

Muốn hiểu rõ bất kỳ điều gì, bất kỳ vấn đề của con người hay khoa học, điều gì là quan trọng, điều gì là cốt lõi? Một cái trí yên lặng, một cái trí mà có ý định của hiểu rõ, đúng chứ? Không phải một cái trí mà loại trừ, mà đang cố gắng tập trung – mà lại nữa là một nỗ lực của kháng cự. Nếu tôi thực sự muốn hiểu rõ cái gì đó, ngay tức khắc có một trạng thái yên lặng của cái trí. Khi bạn muốn lắng nghe nhạc hay nhìn ngắm một bức tranh mà bạn yêu thích, mà bạn có một cảm thông, trạng thái cái trí của bạn là gì? Ngay tức khắc có một yên lặng, phải không? Khi bạn đang lắng nghe nhạc, cái trí của bạn không lang thang khắp mọi nơi; bạn đang lắng nghe. Tương tự như vậy, khi bạn muốn hiểu rõ xung đột, bạn không còn đang lệ thuộc vào thời gian gì cả; đơn giản bạn bị đối diện với cái gì là, mà là xung đột. Sau đó ngay tức khắc kia kìa một tĩnh lặng, một yên lặng của cái trí. Khi bạn không còn lệ thuộc vào thời gian như một phương tiện để thay đổi cái gì là bởi vì bạn thấy được sự giả dối của qui trình đó, vậy thì bạn đối diện với cái gì là, và bởi vì bạn quan tâm đến sự hiểu rõ cái gì là, tự nhiên bạn có một cái trí yên lặng. Trong trạng thái tỉnh thức nhưng thụ động của cái trí có hiểu rõ. Chừng nào cái trí còn ở trong xung đột, đang khiển trách, đang kháng cự, đang ép buộc, không thể có hiểu rõ. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi không được khiển trách bạn, rõ ràng như thế. Chính là cái trí yên lặng, cái trí đứng yên, mới tạo ra sự thay đổi. Khi cái trí không còn đang kháng cự, không còn đang lẩn tránh, không còn đang loại bỏ hay khiển trách ‘cái gì là’ nhưng chỉ tỉnh thức một cách thụ động, vậy thì trong trạng thái thụ động đó của cái trí bạn sẽ tìm ra, nếu bạn thực sự tìm hiểu vấn đề, rằng một thay đổi hiện diện.

Cách mạng chỉ có thể xảy ra được ngay lúc này, không phải trong tương lai; sự tái sinh của thế hệ là ngày hôm nay, không phải ngày mai. Nếu bạn muốn thí nghiệm điều gì tôi đã nói, bạn sẽ phát hiện rằng có sự tái sinh ngay tức khắc, một trạng thái mới mẻ, một chất lượng của tươi trẻ, bởi vì cái trí luôn luôn yên lặng khi nó quan tâm, khi nó ham muốn hay có ý định để hiểu rõ. Đối với hầu hết chúng ta điều khó khăn là, chúng ta không có ý định để hiểu rõ, bởi vì chúng ta sợ hãi rằng, nếu chúng ta đã hiểu rõ, nó có lẽ tạo ra một hành động cách mạng trong sống của chúng ta và thế là chúng ta kháng cự. Chính là hệ thống máy móc đang vận hành khi chúng ta sử dụng thời gian hay một lý tưởng như một phương tiện của sự thay đổi dần dần.

Vẫn vậy sự tái sinh chỉ có thể xảy ra được trong hiện tại, không phải trong tương lai, không phải ngày mai. Một người lệ thuộc vào thời gian như một phương tiện nhờ đó anh ấy có thể kiếm được hạnh phúc, hay nhận ra sự thật hay Thượng đế, chỉ đang tự-lừa dối chính anh ấy; anh ấy đang sống trong dốt nát và thế là trong xung đột. Một người thấy rằng thời gian không là phương cách thoát khỏi sự khó khăn của chúng ta và vì vậy được tự do khỏi sự giả dối, một người như thế tự nhiên có ý định để hiểu rõ; vì vậy cái trí của anh ấy yên lặng một cách tự phát, mà không-ép buộc, mà không-luyện tập. Khi cái trí yên lặng, an bình, không đang tìm kiếm bất kỳ đáp án nào hay bất kỳ giải pháp nào; cũng không kháng cự hay lẩn tránh – chỉ lúc đó mới có thể có một tái sinh, bởi vì lúc đó cái trí có thể nhận biết được điều gì là sự thật; và chính sự thật mới giải thoát, không phải nỗ lực để giải thoát của bạn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2761)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 711)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2296)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2527)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3046)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5986)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2203)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2351)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2802)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com