Tác giả: Không Quán
Lời kết
Khi về Montreal, một người bạn da trắng hỏi tôi, bạn đi cực khổ như vậy, rồi bạn rút ra được bài học gì? Tôi trả lời, bài học lớn rút ra được là, chẳng có cái gì mà có thể gọi là “của tôi”. Anh bạn ngẩn ra, có vẻ không hiểu. Tôi cười và nhìn anh bạn, nơi cổ tay anh đang đeo cái đồng hồ Omega rất đắt tiền và đẹp. Tôi nhẩn nha nói:
Này nhé, anh nhìn xem, tay anh đang đeo cái đồng hồ thật đẹp, anh mua bao nhiêu? Anh nói là khoảng 800 đô la. Tôi tiếp, thế anh mua bằng tiền ở đâu. Trả lời, tôi đi làm kỹ sư và tiền lương của tôi có đủ để mua. Tôi lại cười, đây nhé anh suy nghĩ lại đi, số tiền đó một người kỹ sư như anh, làm việc cực khổ bên Ấn, không thể để dành dễ dàng mà mua, mặc dù anh ta làm việc cực hơn anh gấp mấy lần. Vậy có phải là, nhờ anh may mắn có đủ nhân duyên sinh ra bên này, cho nên dư tiền, ăn mặc sung sướng, dùng đồ đạc sang trọng thượng hạng. Đâu phải là thực sự do mình làm ra, đó chỉ là nghiệp đưa anh sinh ra trong một nước giàu và được hưởng an lành sung sướng chứ đâu phải nhờ anh có tài năng gì hơn những người bên xứ nghèo. Chưa kể, nhà nông bên đó làm việc lao động cực khổ suốt đời mà không đủ ăn, đừng nói mua cái đồng hồ Omega, mà cơm gạo thì bán qua đây cho mình ăn xài dư dả, mình mua bằng đô la sức lao động mồ hôi nước mắt của họ với giá rẻ mạt. Vậy nên dư tiền mua được đồng hồ xa hoa này để đeo, rồi mình tự cho là của mình, do mình làm ra mua được, không biết là thực ra, chẳng phải tự do bản thân mình mà có được. Vậy thì, cái gì là của mình? Hay là phải chăng, mình có được những thứ xa hoa đó từ những người nghèo khổ?
Anh bạn tôi lại ngẩn người ra một lúc, xong rồi bảo tôi, cuộc bàn luận này có nhiều ý nghĩa thâm sâu trong đó quá... Tôi cười và bắt tay thật chặt với anh chàng.
Về Montreal cho đến cả tuần sau, tôi thầm nghĩ là tuy đã ngộ nhiều điều trong chuyến đi kỳ diệu này, nhưng ngộ mới chỉ là vào cửa đạo. Tỷ như, ngộ về phạm hạnh, đâu phải đã sống ngay được đời phạm hạnh. Chư tổ đã từng nói, “đốn ngộ, tiệm tu”. Ngộ thì chớp nhoáng, nhưng từ đó mới sắp xếp để tu; tu cũng như là bóc hành, bóc từng lớp nội kết ra mà vứt bỏ, cho nên phải tiệm tu. Tôi nhớ đến bài viết về giới thể của thầy Nhất Chân rất hay mà tôi đã từng đọc, thầy giảng là đã có giới thể rồi thì sớm muộn gì cũng đạt đến giải thoát. Tôi mang điều này áp dụng vào ngộ, thấy cũng tương tợ như thế. Ngộ sẽ trở thành khuôn khổ dẫn dắt đi đến hành trì đạt đến điều ngộ ra. Như người đi trong đêm thấy ra ánh sáng, như người đi rừng thấy ra con đường, không còn lơ mơ bất định. Chỉ còn đi theo con đường, theo ánh sáng mà ra khỏi tăm tối.
Mà muốn thế thì phải tích tụ cho đủ các hành trì trí tuệ và công đức, là nhị tư lương.
Trong Bảo hành vương chính luận,[57]tổ Long Thọ đã viết trong câu kệ 213:
Hai tư lương là nhân
Đạt Phật quả Bồ Đề
Vậy, tóm lại, hãy luôn,
Hành trì tích tư lương,
Công đức và trí tuệ.
Đầu xuân, tháng tư, Phật đản 2552 –DL 2008
Không Quán
[1]Hai câu thơ chữ Hán này nghĩa là: Việc đời thăng trầm, bạn đừng hỏi làm gì. Hãy nhìn ra ngoài khơi khói sóng xa thẳm kia, chỉ thấy chiếc thuyền ngư phủ.
[2]Hai câu này trích từ bài phú Tiền Xích Bích của Tô Đông Pha, nghĩa là: chỉ còn có gió mát ở trên sông, cùng trăng sáng trong động núi.
[3]Lâm tẩu: rừng và nội cỏ.
[4]Nhan đề của một bài ca của Lý Bạch, nghĩa là “mời uống rượu”.
[5]Tạm dịch: “Bạn có thấy nước sông Hoàng Hà, từ trên trời chảy tuôn xuống biển không hề quay trở lại.” Ý nói đời người, thời gian qua đi thì không trở lại. Đó là câu đầu của bài Tương tiến tửu.
[6]Tạng ngữ gọi là Monlam Chen Mo.
[7]Tên y học là Psoriasis.
[8]UVB treatment.
[9]Chữ đương kim viện trưởng trong Tạng ngữ là Khen Rinpoche.
[10]Gelugpa – Hoàng mạo phái, do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo.
[11]Là niềm vui sướng của thiền định.
[12]Nhà lớn tiếng Tạng ngữ gọi là Khangtsen, nhà nhỏ gọi là Labrang.
[13]Guru Puja (bản dịch của người viết nhật ký này, dưới pháp danh là Chân Giác và Diệu Hạnh Giao Trinh).
[14]Chùa này dịch tên nghĩa là Vùng Đất Tịnh Lạc – tên do Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt cho.
[15]Là thầy đương kim viện trưởng.
[16]Ngũ đại luận bao gồm:
1. Lượng học: Pramana, the Buddhist logic and epistemology (valid cognition) including the studies of many non-Buddhist thoughts.
2. Bát nhã ba la mật: Prajnaparmitas which include voluminous texts of Bodhisattva practices such as the study of six perfections.
3. Trung quán luận và Tánh không: Madhyamika, the study of Buddhist middle views, Sunyatavada..
4. A tỳ đàm Câu xá luận: Abhidharmakosa, the Buddhist metaphysics. Từ ngữ metaphysics (tiếng Hy lạp, meta=siêu, physics=hình học) bao gồm các phần: 1. vũ trụ luận (cosmology) và 2. Hiện tượng luận (ontology).
5. Luật: Vinaya, monastic rules and disciplines.
[17]Thiên nữ: dakini, theo niềm tin của Mật tông là các vị hộ trì cho sự tu tập của hành giả.
[18]Gyumed : từ ngữ “Gyu” nghĩa là Mật tông, còn “med” nghĩa là ở vùng đất thấp (vị trí chứ không phải là trình độ). Đối lại với Gyuto là Thượng Mật Viện vì từ ngữ “to” nghĩa là ở trên vùng đất cao.
[19]Loại va-li nhỏ tiếng Anh gọi là carry-on.
[20]Vajrasattva
[21]Blessings.
[22]Sinusitis.
[23]Nhật ngữ gọi là satori.
[24]The notion “my and mine” is a mere imputation in our mind, having no intrinsic value.
[25]Tạng mật: tức Mật tông Tây Tạng.
[26]Sống đời phạm hạnh nghĩa là sống không có liên hệ ái dục, không có gia đình vợ con. “Cát ái từ sở thân” nghĩa là lìa bỏ ái dục, vì ái dục khuấy động tâm.
[27]Direct insight of the true nature.
[28]Sống đời biết đủ, tâm thường định. Người đạt vô cầu, phẩm cách cao.
[29]“Conditio sine qua non”: (a condition) without which it could not be.
[30]Tìm xem bài viết Khổ đau và hạnh phúc - phần 3, của cùng tác giả Không Quán tại địa chỉ: http://tetet.net/tt/viewtopic1.php?t=7678
[31]Roti: tiếng Hindi, một loại bánh mì rất thông dụng của Ấn Độ.
[32]Quyền giáo: expedient (temporary) teachings, thật giáo: true (ultimate) teachings. (expedient: suitable for achieving a particular end in a given circumstance).
[33]Đây là bản kinh Pháp cú trong Kinh tạng của Tây Tạng, nên không giống hoàn toàn với bản kinh Pháp cú đang lưu hành tại Việt Nam. Nội dung các chương này cũng đều có trong những bản Hán ngữ, Việt ngữ, nhưng sự sắp xếp có khác đi và tên một số chương cũng không giống nhau.
[34]Non-abiding Nirvana.
[35]Duality.
[36]Non-dual.
[37]Câu này trích ra từ kinh Kim Cang: đức Phật thuyết giảng cách hàng phục tâm và an trụ tâm, đạt đến trạng thái xả ly, không còn vướng mắc, chấp trước vào bất kỳ cái gì, xả ly ngay cả các thành tựu, ngay cả Phật quả. Trong kinh này, đức Phật đã sử dụng biện chứng pháp “phủ định trên phủ định” để phá bỏ toàn bộ mọi tâm chấp trước khái niệm, ngay cả chấp trước vào trong cái mà mình vừa mới phủ định. Trong kinh, có những đoạn như là “Trang nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm”. Cách “phủ định trên phủ định” nhằm để phá bỏ toàn bộ tâm chấp ngã qua khái niệm: “cái tôi, của tôi và cái thấy về cái tôi” của các hành giả. Nhờ phá bỏ toàn diện các tâm khái niệm chấp trước về bản ngã mà các hàng Bồ Tát mới hàng phục được tâm và an trụ tâm trong “vô sở trụ”. Toàn bộ kinh được tiêu biểu bằng câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Đây có thể xem là điểm then chốt của kinh này.
[38]Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 1- phần Bảy, chỗ gạn hỏi tìm tâm.
[39]Mental fabication, imputation of the mind.
[40]Bỉ dụ nghĩa là so sánh.
[41]Hổ mẫu: tigress.
[42]Biến kế, (mental fabrication) như khi đi ban đêm, nhìn cuộndây mà tưởng là con rắn.
[43]Trích từ sách “Phật và Thánh chúng”, Cao Hữu Đính, bản dịch 1979.
[44]Mạt-na thức: tức thức thứ 7, hay thức chấp ngã.
[45]Câu 101-104, Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
[46]Ấu thuần điểu: chim cút con.
[47]The 16 drops of Kadampa.
[48]Tức Tứ pháp ấn.
[49]Mahaparinirvana sutra.
[50]Pháp hữu vi, anh ngữ là compound phenomena, cũng là composite things.
[51]Pháp hữu lậu, anh ngữ là contaminated phenomena, cũng là contaminated things.
[52]Đây là đại lễ quán đảnh, (tạng ngữ gọi là wang), chứ không phải tiểu lễ quán đảnh (tạng ngữ là tchenang). Nhưng đại lễ quán đảnh này không có ban mật pháp hành trì (saddhana, Trung Hoa dịch là nghi quỹ), chỉ có ban hứa nguyện hành trì, (tạng ngữ là damtsig, phạn ngữ là samaya), xem lời khuyên, phần 4 ở bên dưới.
[53]Nghĩa địa chẳng hạn.
[54]Chim gõ kiến.
[55]Monlam Chenmo, Anh ngữ là The Great Prayer Festival.
[56]Gyuto Tantric College.
[57]Bảo hành vương chính luận, bản dịch chuẩn bị cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ diễn ra tại Nantes tháng 8, 2008 (http://www.dalailama-nantes2008.fr/site_VN/ens_bibliographie.php). Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác và Diệu Hạnh Giao Trinh biên soạn, phối hợp với các từ ngữ dùng trong bản dịch Hán văn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Daisho Tripitaka).