- 1. Tỳ-kheo phụng dưỡng cha mẹ
- 2. Phụng dưỡng cha mẹ thoát khỏi nạn chết
- 3. Người nghèo Sutana hiếu dưỡng cha mẹ
- 4. Chuyện kên kên chúa
- 5. Chim vẹt nhân từ
- 6. Voi chúa nuôi dưỡng voi mẹ
- 7. Lời nguyện của người con hiếu
- 8. Tôn giả Mục-kiền-liên
- 9. Nước mắt mẹ hiền
- 10. Hòa thượng cua
- 11. Các thiền sư và những người mẹ
- 12. Người con hiếu cứu mẹ
- 13. Ba hạng con
- 14. Công ơn cha mẹ không dễ đền đáp
- 15. Người con sinh từ hoa sen
- 16. Chuỗi anh lạc
- 17. Đứa con lười biếng
- 18. Chí Hiếu và cây táo Thiết Sơn
- 19. Hoàng tử A-xà-thế
- 20. Vua A-xà-thế sám hối
- 21. Cho tiền đi nghe pháp
- 22. Người con dâu kính Phật
- 23. Bốn đứa con
- 24. Chuyện thầy Dũng Mãnh
- 25. Dứt bỏ ảo tình
- 26. La-hầu-la xuất gia
- 27. Một chút lửa địa ngục
- 28. Một chồng hai vợ
- 29. Bát cơm cúng dường
- 30. Vườn Nai
- 31. Duyên xưa nghiệp cũ
- 32. Nắm tro tàn
- 33. Vụ kiện mất con
- 34. Quỷ mẹ
- 35. Bảy năm trong chậu máu
- 36. Hai đứa bé sinh đôi
- 37. Ngày xưa có một ông vua
TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
– Này chư tỳ-kheo, có 3 hạng con trong đời này:
1. Con hơn cha mẹ (Atijàtaputta).
2. Con như cha mẹ (Anujàtaputta).
3. Con kém cha mẹ (Avajàtaputta).
Thế nào gọi là con hơn cha mẹ?
Này chư tỳ-kheo, cha mẹ ở trong đời này là người không có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Cha mẹ là người không có đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không có ngũ giới, thường tạo mọi ác pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; thường tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Người con là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư tỳ-kheo, như vậy gọi là con hơn cha mẹ.
Thế nào gọi là con như cha mẹ?
Này chư tỳ-kheo, cha mẹ ở trong đời này là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Cha mẹ là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy cũng là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; thường tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Người con là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư tỳ-kheo, như vậy gọi là con như cha mẹ.
Thế nào gọi là con kém cha mẹ?
Này chư tỳ-kheo, cha mẹ ở trong đời này là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Cha mẹ là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người không có quy y, không nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Người con là người không có đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi ác pháp.
Này chư tỳ-kheo, như vậy gọi là con kém cha mẹ.
Bài kinh trên đề cập đến 3 hạng người con so với cha mẹ, đó là sự so sánh căn cứ theo thiện pháp, ác pháp.
Tục ngữ có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Theo quan niệm Phật giáo, con hơn cha mẹ được hiểu là:
° Cha mẹ là người không có giới, không có định, không có tuệ, thường tạo mọi tội lỗi, mọi ác pháp; còn con là người có giới đức trong sạch, thường thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ, thường tạo mọi phước thiện, mọi thiện pháp.
Như vậy mới gọi “Con hơn cha là nhà có phúc”.
° Cha mẹ là người có giới đức trong sạch, thực hành thiền định chứng đắc thiền bậc thập, thực hành thiền tuệ chứng đắc Thánh quả bậc thấp; còn con là người cũng có giới đức trong sạch, thường thực hành thiền định chứng đắc thiền bậc cao, thực hành thiền tuệ chứng đắc Thánh quả bậc cao.
Như vậy mới gọi “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Phật giáo quan niệm giá trị con người không căn cứ vào sự giàu hoặc nghèo, trình độ học vấn, công danh cao, sự nghiệp lớn, có chức quyền... mà chỉ căn cứ vào thiện pháp, ác pháp.
Cho nên, dù cha mẹ là người dân thường, ít học; song là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đã quy y nương nhờ nơi Phật, Pháp, Tăng, có giới đức, hoan hỉ trong mọi thiện pháp như bố thí, giữ gìn giới trong sạch, thường thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ... Còn con là người có học vị tiến sĩ, có quyền cao chức trọng; song là người không có đức tin nơi Tam bảo, không có giới, thường tạo mọi tội lỗi, lại còn làm những việc xấu xa, vi phạm luật pháp ... làm cha mẹ mang tiếng xấu, gia đình dòng họ phải hổ thẹn với mọi người.
Như vậy không thể gọi là “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi chúng sinh tư vô thuỷ cho đến kiếp hiện tại, mỗi chúng sinh tích lũy thiện nghiệp hoặc ác nghiệp khác nhau, cho nên quả của nghiệp cũng khác nhau. Cha mẹ là nơi nương nhờ để thiện nghiệp cho quả tái sanh trở thành người con của cha mẹ. Do đó, có những người con xét về đức hạnh, về thiện pháp hơn cha mẹ, hoặc như cha mẹ hoặc kém cha mẹ.
Chẳng hạn như, Bồ Tát thái tử Tất-đạt-đa khi sanh ra có 32 tướng tốt của bậc thiện trí và 80 vẻ đẹp mà trong dòng họ Thích-ca không có một ai sánh được, đó là do quả của thiện nghiệp mà Bồ Tát đã tạo nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, không phải do mẫu hậu và phụ vương của ngài.
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Ba hạng con
Trong kinh Puttasutta, đức Phật dạy:– Này chư tỳ-kheo, có 3 hạng con trong đời này:
1. Con hơn cha mẹ (Atijàtaputta).
2. Con như cha mẹ (Anujàtaputta).
3. Con kém cha mẹ (Avajàtaputta).
Thế nào gọi là con hơn cha mẹ?
Này chư tỳ-kheo, cha mẹ ở trong đời này là người không có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Cha mẹ là người không có đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không có ngũ giới, thường tạo mọi ác pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; thường tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Người con là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư tỳ-kheo, như vậy gọi là con hơn cha mẹ.
Thế nào gọi là con như cha mẹ?
Này chư tỳ-kheo, cha mẹ ở trong đời này là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Cha mẹ là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy cũng là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; thường tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Người con là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư tỳ-kheo, như vậy gọi là con như cha mẹ.
Thế nào gọi là con kém cha mẹ?
Này chư tỳ-kheo, cha mẹ ở trong đời này là người đã có quy y, nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Cha mẹ là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người không có quy y, không nương nhờ nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng; không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sanh ra sự buông thả. Người con là người không có đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi ác pháp.
Này chư tỳ-kheo, như vậy gọi là con kém cha mẹ.
Bài kinh trên đề cập đến 3 hạng người con so với cha mẹ, đó là sự so sánh căn cứ theo thiện pháp, ác pháp.
Tục ngữ có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Theo quan niệm Phật giáo, con hơn cha mẹ được hiểu là:
° Cha mẹ là người không có giới, không có định, không có tuệ, thường tạo mọi tội lỗi, mọi ác pháp; còn con là người có giới đức trong sạch, thường thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ, thường tạo mọi phước thiện, mọi thiện pháp.
Như vậy mới gọi “Con hơn cha là nhà có phúc”.
° Cha mẹ là người có giới đức trong sạch, thực hành thiền định chứng đắc thiền bậc thập, thực hành thiền tuệ chứng đắc Thánh quả bậc thấp; còn con là người cũng có giới đức trong sạch, thường thực hành thiền định chứng đắc thiền bậc cao, thực hành thiền tuệ chứng đắc Thánh quả bậc cao.
Như vậy mới gọi “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Phật giáo quan niệm giá trị con người không căn cứ vào sự giàu hoặc nghèo, trình độ học vấn, công danh cao, sự nghiệp lớn, có chức quyền... mà chỉ căn cứ vào thiện pháp, ác pháp.
Cho nên, dù cha mẹ là người dân thường, ít học; song là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đã quy y nương nhờ nơi Phật, Pháp, Tăng, có giới đức, hoan hỉ trong mọi thiện pháp như bố thí, giữ gìn giới trong sạch, thường thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ... Còn con là người có học vị tiến sĩ, có quyền cao chức trọng; song là người không có đức tin nơi Tam bảo, không có giới, thường tạo mọi tội lỗi, lại còn làm những việc xấu xa, vi phạm luật pháp ... làm cha mẹ mang tiếng xấu, gia đình dòng họ phải hổ thẹn với mọi người.
Như vậy không thể gọi là “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi chúng sinh tư vô thuỷ cho đến kiếp hiện tại, mỗi chúng sinh tích lũy thiện nghiệp hoặc ác nghiệp khác nhau, cho nên quả của nghiệp cũng khác nhau. Cha mẹ là nơi nương nhờ để thiện nghiệp cho quả tái sanh trở thành người con của cha mẹ. Do đó, có những người con xét về đức hạnh, về thiện pháp hơn cha mẹ, hoặc như cha mẹ hoặc kém cha mẹ.
Chẳng hạn như, Bồ Tát thái tử Tất-đạt-đa khi sanh ra có 32 tướng tốt của bậc thiện trí và 80 vẻ đẹp mà trong dòng họ Thích-ca không có một ai sánh được, đó là do quả của thiện nghiệp mà Bồ Tát đã tạo nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, không phải do mẫu hậu và phụ vương của ngài.
Gửi ý kiến của bạn