- Tựa
- Tự tình cùng Sơn Thắng
- Vài suy nghĩ về giáo dục Phật giáo hiện nay
- Giới luật là nguồn sinh lực của Tăng-già
- Quý sư Tây Tạng tạo đồ hình Mạn-đà-la bằng cát
- Ứng phú đạo tràng
- Bài kệ trong kinh Kim Cang
- Đôi nét về Ngọc Xá-lợi
- Hương tháng tư
- Đi qua tháng bảy
- Rằm tháng Bảy - Lễ hội tình người
- Kể chuyện chiêm bao
- Chuyện ngài Tăng Hộ cháu
- Ồ! Vậy hả?
- Bóng trúc bên thềm
- Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
- Gửi một mùa đông xa
- Quay quắt tình quê
- Viết cho bạn
- Miền nhớ
- Chùa Phật Đà trên đất Hà Tiên
- Angkor Wat – Chút ấn tượng riêng
- Hành hương Trung Quốc
- Hành hương đất nước chùa vàng
BÓNG TRÚC BÊN THỀM
Tâm Chơn
Và, ngày mai là tháng tư - mùa Phật đản.
Kinh sử truyền rằng, vào một ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, cách nay 2633 năm, tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ, miền Bắc Ấn Độ, nay thuộc xứ Nepal, “một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và loài Người”. (kinh A Hàm)
Chúng sanh ấy, con người phi thường ấy chính là Thái tử Sĩ Đạt Ta, sau xuất gia tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Thái tử được sinh ra và lớn lên trong tình thương yêu, trìu mến “đặc biệt” của phụ vương Tịnh Phạn. Thế nhưng, tất cả những gì mà thế gian cho là hạnh phúc nhất cũng chẳng hề lung lạc được chí nguyện xuất trần vốn tiềm ẩn trong trái tim từ bi của Thái tử.
Để rồi, niềm thao thức vì nỗi khổ sanh già bệnh chết của loài người, tâm khắc khoải bởi thương nhân thế đắm chìm trong vô minh điên đảo, Thái tử đã vượt thành ra đi tìm chân lý.
Trải qua 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm tu khổ hạnh nơi chốn rừng già, Thái tử nhận ra rằng các phương pháp đó vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi, không đưa đến giải thoát.
Thế là Thái tử từ bỏ các phương pháp ấy và một mình thực hành theo con đường tu tập riêng. Một hôm, dưới cội Bồ-đề, sau 49 ngày đêm tham thiền nhập định, Thái tử đã chứng ngộ chân lý tối thượng, trở thành đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Toàn giác.
Kể từ đó, trên bước đường hoằng pháp độ sanh không hề mệt mỏi, Ngài đã hóa độ đủ mọi thành phần trong xã hội. Từ các vị Bà La Môn, vua chúa đến thứ dân, giàu sang phú quý đến cùng đinh nghèo khổ, ngay cả hạng gái giang hồ, những tên cướp… tất cả đều được Ngài giáo hóa, không phân biệt.
Nói chung, những ai hữu duyên gặp Phật đều được thấm nhuần giáo pháp của Ngài mà tỏ ngộ, chứng đạt các quả vị Thanh văn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
“Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
Áo não tự thân đa nghiệp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.”
(Khi Phật ở đời con chìm đắm
Nay được thân người Phật diệt độ
Buồn thay thân này nhiều nghiệp chướng
Chẳng thấy thân vàng đấng Như Lai.)
Tuy nhiên, dù đức Phật 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp đã Niết-bàn nhưng pháp Phật nhiệm mầu muôn đời vẫn lung linh tỏa sáng. Chỉ e chúng ta chưa đủ duyên tiếp nhận, hoặc giả hững hờ, không thật tâm đi đúng lộ trình của đức Thế Tôn nên ngàn kiếp mãi loanh quanh trong màn đêm tăm tối!
Sự xuất hiện của đức Phật trên thế gian này là một phúc duyên lớn lao của nhân loại. Bởi sự ra đời của Ngài, cũng như Chư Phật ba đời, đều chỉ vì đại nguyện “Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến” (kinh Pháp Hoa). Đều vì mục đích là chỉ bày cho chúng sinh thấy rõ và thể nhập được Tri kiến Phật nơi mình, khiến cho chúng sanh nhờ đó mà thoát khỏi khổ đau sanh tử, vui cảnh Niết-bàn tịch lạc ...
“Hạnh phúc thay, đức Phật đản sinh
Hạnh phúc thay, giáo pháp cao minh
Hạnh phúc thay, Tăng già hòa hợp
Hạnh phúc thay, tứ chúng đồng tu”.
(Kinh Pháp Cú, kệ số 194)
Và hạnh phúc thay, hằng năm vào những ngày tháng tư âm lịch, ở khắp mọi nơi, những người con Phật đều cùng hân hoan, trang trọng cử hành đại lễ kỷ niệm mừng ngày khánh đản đức Từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, cũng là để ôn lại lời Phật dạy và tỏ tấc lòng thành tri ân đức Phật đã mang thông điệp tình thương và hạnh phúc đến cho nhân loại.
Bất chợt, tôi lại muốn nhắc đến kỷ niệm một thời thơ ấu. Ừ, thì cũng nhờ những buổi tối lên chùa coi tập văn nghệ mừng Phật đản mà tôi mới dạn dĩ đến với đạo. Chứ thiệt lòng mà nói, nhà ở gần chùa, thích tụng kinh nhưng có bao giờ dám đi chùa một mình đâu? Tối tối, tôi chỉ qua nhà cô Ba hàng xóm tụng kinh thôi. Mỗi tháng 2 kỳ, nếu có lên chùa sám hối thì tôi đi chung với tụi bạn. Lần nào cũng vậy, khi vào chánh điện, thì y như rằng tôi luôn ngồi ngay vị trí quen thuộc của mình nơi góc khuất bên Đại hồng chung. Đến lúc tham gia sinh hoạt Gia đình Phật tử, tới lui chùa thường xuyên hơn thì tánh nhút nhát trong tôi mới tan biến dần.
Tôi còn nhớ, cũng sau mùa Phật đản năm ấy, tôi được quy y trở thành một Phật tử… Ôi! Mới đó mà đã hơn 20 năm.
Rồi những tháng tư đi qua, những tháng tư lại về…
Tôi lại lặng yên ngắm nhìn bầu trời vằng vặc ánh trăng mùa Phật đản, nghe hương tháng tư khe khẽ rót bên thềm.
Ô hay! Chẳng có tháng ngày, thôi những xuân hạ thu đông, đức Phật giáng sinh trong từng tâm niệm thiện lành của mỗi chúng ta.
Tâm Chơn
Hương tháng tư
Âm lịch, ngày mai là tháng tư. Tôi vẫn thường để ý đến tháng tư theo cách của riêng mình. Tháng của những cơn mưa đầu mùa thưa thớt và bất chợt luôn cố hết sức làm dịu mát cái nóng bức của nắng hè. Tháng của chùm phượng vĩ đỏ rực một góc trời vô tư lự. Tháng của những làng sen trở mình thức dậy tỏa hương sau mấy tháng ngủ vùi trong lớp bùn khô. Tháng của Đại lễ mừng Phật đản sanh. Tháng của hàng Tu sĩ Phật giáo bước vào mùa An cư kiết hạ.Và, ngày mai là tháng tư - mùa Phật đản.
Kinh sử truyền rằng, vào một ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, cách nay 2633 năm, tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ, miền Bắc Ấn Độ, nay thuộc xứ Nepal, “một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và loài Người”. (kinh A Hàm)
Chúng sanh ấy, con người phi thường ấy chính là Thái tử Sĩ Đạt Ta, sau xuất gia tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Thái tử được sinh ra và lớn lên trong tình thương yêu, trìu mến “đặc biệt” của phụ vương Tịnh Phạn. Thế nhưng, tất cả những gì mà thế gian cho là hạnh phúc nhất cũng chẳng hề lung lạc được chí nguyện xuất trần vốn tiềm ẩn trong trái tim từ bi của Thái tử.
Để rồi, niềm thao thức vì nỗi khổ sanh già bệnh chết của loài người, tâm khắc khoải bởi thương nhân thế đắm chìm trong vô minh điên đảo, Thái tử đã vượt thành ra đi tìm chân lý.
Trải qua 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm tu khổ hạnh nơi chốn rừng già, Thái tử nhận ra rằng các phương pháp đó vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi, không đưa đến giải thoát.
Thế là Thái tử từ bỏ các phương pháp ấy và một mình thực hành theo con đường tu tập riêng. Một hôm, dưới cội Bồ-đề, sau 49 ngày đêm tham thiền nhập định, Thái tử đã chứng ngộ chân lý tối thượng, trở thành đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Toàn giác.
Kể từ đó, trên bước đường hoằng pháp độ sanh không hề mệt mỏi, Ngài đã hóa độ đủ mọi thành phần trong xã hội. Từ các vị Bà La Môn, vua chúa đến thứ dân, giàu sang phú quý đến cùng đinh nghèo khổ, ngay cả hạng gái giang hồ, những tên cướp… tất cả đều được Ngài giáo hóa, không phân biệt.
Nói chung, những ai hữu duyên gặp Phật đều được thấm nhuần giáo pháp của Ngài mà tỏ ngộ, chứng đạt các quả vị Thanh văn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
“Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
Áo não tự thân đa nghiệp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.”
(Khi Phật ở đời con chìm đắm
Nay được thân người Phật diệt độ
Buồn thay thân này nhiều nghiệp chướng
Chẳng thấy thân vàng đấng Như Lai.)
Tuy nhiên, dù đức Phật 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp đã Niết-bàn nhưng pháp Phật nhiệm mầu muôn đời vẫn lung linh tỏa sáng. Chỉ e chúng ta chưa đủ duyên tiếp nhận, hoặc giả hững hờ, không thật tâm đi đúng lộ trình của đức Thế Tôn nên ngàn kiếp mãi loanh quanh trong màn đêm tăm tối!
Sự xuất hiện của đức Phật trên thế gian này là một phúc duyên lớn lao của nhân loại. Bởi sự ra đời của Ngài, cũng như Chư Phật ba đời, đều chỉ vì đại nguyện “Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến” (kinh Pháp Hoa). Đều vì mục đích là chỉ bày cho chúng sinh thấy rõ và thể nhập được Tri kiến Phật nơi mình, khiến cho chúng sanh nhờ đó mà thoát khỏi khổ đau sanh tử, vui cảnh Niết-bàn tịch lạc ...
“Hạnh phúc thay, đức Phật đản sinh
Hạnh phúc thay, giáo pháp cao minh
Hạnh phúc thay, Tăng già hòa hợp
Hạnh phúc thay, tứ chúng đồng tu”.
(Kinh Pháp Cú, kệ số 194)
Và hạnh phúc thay, hằng năm vào những ngày tháng tư âm lịch, ở khắp mọi nơi, những người con Phật đều cùng hân hoan, trang trọng cử hành đại lễ kỷ niệm mừng ngày khánh đản đức Từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, cũng là để ôn lại lời Phật dạy và tỏ tấc lòng thành tri ân đức Phật đã mang thông điệp tình thương và hạnh phúc đến cho nhân loại.
Bất chợt, tôi lại muốn nhắc đến kỷ niệm một thời thơ ấu. Ừ, thì cũng nhờ những buổi tối lên chùa coi tập văn nghệ mừng Phật đản mà tôi mới dạn dĩ đến với đạo. Chứ thiệt lòng mà nói, nhà ở gần chùa, thích tụng kinh nhưng có bao giờ dám đi chùa một mình đâu? Tối tối, tôi chỉ qua nhà cô Ba hàng xóm tụng kinh thôi. Mỗi tháng 2 kỳ, nếu có lên chùa sám hối thì tôi đi chung với tụi bạn. Lần nào cũng vậy, khi vào chánh điện, thì y như rằng tôi luôn ngồi ngay vị trí quen thuộc của mình nơi góc khuất bên Đại hồng chung. Đến lúc tham gia sinh hoạt Gia đình Phật tử, tới lui chùa thường xuyên hơn thì tánh nhút nhát trong tôi mới tan biến dần.
Tôi còn nhớ, cũng sau mùa Phật đản năm ấy, tôi được quy y trở thành một Phật tử… Ôi! Mới đó mà đã hơn 20 năm.
Rồi những tháng tư đi qua, những tháng tư lại về…
Tôi lại lặng yên ngắm nhìn bầu trời vằng vặc ánh trăng mùa Phật đản, nghe hương tháng tư khe khẽ rót bên thềm.
Ô hay! Chẳng có tháng ngày, thôi những xuân hạ thu đông, đức Phật giáng sinh trong từng tâm niệm thiện lành của mỗi chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn