"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275).
Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm, người ở Mi Sơn (huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), con của Tô Tuân, anh của Tô Triệt. Cả ba cha con đều là văn gia trứ danh đời nhà Tống, được người đương thời hâm mộ và gọi là "Tam Tô".
Tô Thức làm quan đời Tống Nhân Tông. Đến triều Thần Tông, Vương An Trạch lên làm tể tướng, thi hành việc cải cách chính trị, Tô Thức cùng em dâng sớ lên Thần Tông, công kích dự án tân pháp của họ Vương; và vì xúc phạm đến quan tể tướng nên Tô Thức phải bị biếm ra Hàng Châu, rồi Hồ Châu, Hoàng Châu, Huệ Châu và Quỳnh Châu.
Trong thời gian ở Hoàng Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), Tô Thức làm nhà ở Đông Pha (sườn đồi phía đông) nên lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ.
Ở đây, ông có làm hai bài "Tiền Xích Bích phú" và "Hậu Xích Bích phú". Xích Bích là tên một dãy núi tại huyện Gia Ngư, tỉnh Hồ Bắc trên bờ phía nam sông Dương Tử.
Đây là một di tích lịch sử.
Năm Kiến An thứ 13 (dương lịch 208), Tào Tháo, chúa Bắc Ngụy đã thua to tại đó vì bị tướng của Đông Ngô Tôn Quyền là Chu Du dùng trận hỏa công đốt sạch chiến thuyền. Hai bên bờ sông vì lửa đốt cháy đỏ nên người ta mới gọi là"Xích Bích" (vách đỏ).
Tô Thức bị trích ra Hoàng Châu, tức huyện Hoàng Cương ngày nay, thuộc tỉnh Hồ Bắc nhưng cách xa huyện Gia Ngư. Tại Hoàng Châu có một dãy núi đá sắc đỏ cũng gọi là Xích Bích hoặc "Xích tị cơ", Tô Thức nhân đi chơi đến đây là bài Xích Bích phú.
Trong "Thanh nhứt thống chí" có dẫn lời của Hồ Khuê trong "Xích Bích khảo" cho rằng: "Tô Tử Chiêm đã lầm lẫn Xích tị cơ tại Hoàng Châu với Xích Bích tại huyện Gia Ngư". Nhưng thiết nghĩ có lý nào một người như Tô Thức mà lại lầm lẫn một việc quá tầm thường đối với một di tích danh tiếng trong lịch sử được. Có lẽ vì hai nơi trùng tên nên ông Tô liên tưởng đến việc Tào Tháo, Chu Du đời Tam Quốc; và nói đến trong bài phú với dụng ý luận anh hùng và ký thác tâm sự.
Ông sáng tác Xích Bích phú trong thời gian bị biếm trích, tâm hồn đương đau khổ và chán nản nên muốn tìm nguồn an ủi ở những lẽ phi thường. Bởi vậy, trong bài có những tư tưởng tiêu sái, phóng khoáng, siêu thoát.
Tô Thức là một nhà văn thơ lỗi lạc. Văn của ông hàm súc, bôn phóng; thơ cũng tuấn dật, thanh cao. Nét chữ của ông lại đẹp, vẽ khéo, đúng là một văn hào, thi gia kiêm nghệ sĩ.
Bài Tiền Xích Bích phú hay hơn bài Hậu Xích Bích phú. Vì thế bài Tiền Xích Bích phú đã được nhiều văn gia thi sĩ dịch ra Việt văn như Phạm Sĩ Vy, Phan Kế Bính, v.v...
Nguyên tác:
Nhâm tuất chi thu,
Thất nguyệt kỳ vọng:
Tô tử dữ khách phiếm chu,
Du ư Xích Bích chi hạ.
Thanh Phong từ lai, thủy ba bất hưng.
Cử tửu chúc khách
Tụng Minh nguyệt chi chi,
Ca yểu điệu chi chương
Thiểu yên, nguyệt xuất ư đông chi thượng,
Bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi gian.
Bạch lộ hoành giang,
Thủy quang tiếp thiên.
Túng nhất vĩ chi sở như,
Lăng vạn khoảng chi mang nhiên
Hạo hạo hồ như bằng hư ngự phong,
Nhi bất chi kỳ sở chỉ.
Phiêu phiêu hồ như di thế độc lập,
Vũ hóa nhi đăng tiêu.
Ư thị ẩm tửu lạc thậm,
Khấu huyền ca nhi.
Kỳ ca viết: "Quế trạo hề lan tương,
Kích không hề tố lưu quang.
Diếu diếu hề dư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhứt phương".
Khách hữu xuy động tiêu gaỉ,
Ỷ ca nhi họa chi.
Kỳ thanh ô ô nhiên,
Như oán, như mộ, như khấp, như tố.
Dư âm niệu niệu,
Bất tuyệt như lũ.
Vũ u hác chi tiềm giao,
Khấp cô chu chi ly phụ.
Tô tử thiểu nhiên,
Chính khâm nguy tọa.
Nhi vấn khách viết:
"Hà nhi kỳ thiên dã?" Khách viết:
"Nguyệt minh linh hy, ô thước nam phi;
Thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ?
Tây vọng Hạ khẩu, đông vọng Vũ Xương;
Sơn xuyên tương liễu, uất hồ thương thương.
Thử phi Tào Mạnh Đức
Chi khốn ư Chu lang giả hồ?
Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng,
Thuận lưu nhi đông dã;
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ tế không.
Si (ly) tửu lâm giang, hoành sáo phú thi;
Cố nhất thế chi hùng dã.
Nhi kim an tại tai!
Huống ngô dữ tử,
Ngư tiều ư giang chữ phi thượng;
Lữ ngư hà nhi hữu mi lộc;
Giá nhất diệp chi thiên chu,
Cử bào tôn dĩ tương chúc.
Ký phù du ư thiên địa,
Diểu thương hải chi nhất túc.
Ai ngô sinh chi tu du,
Tiện trường giang chi vô cùng.
Hiệp phi tiên dĩ ngao du.
Bão minh nguyệt nhi trường chung.
Tri bất khả hồ sậu đắc,
Thác di hưởng ư bi phong."
Tô tử viết: "Khách diệt tri
Phù thủy dữ nguyệt hồ?
Thệ giả như tư, nhi vị thường vãng dã.
Doanh hư giả như bỉ, nhi tốt mạc tiêu trường dã.
Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi,
Tắc thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn;
Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi,
Tắc vật dữ ngã.
Giai vô tận dã;
Nhi hựu hà tiện hồ?
Thả phù thiên địa chi gian,
Vật các hữu chủ.
Cẩu phi ngô chi sở hữu.
Tuy nhất hào nhi mạc thủ.
Duy giang thượng
Chi thanh phong,
Dữ sơn gian,
Chi minh nguyệt;
Nhĩ đắc chi nhi vi thanh,
Mục ngộ chi nhi thành sắc;
Thủ chi vô cấm,
Dụng chi bất kiệt.
Thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã,
Nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích".
Khách hỷ nhi tiếu,
Tẩy trản cách chước;
Hào hạch ký tận,
Bôi bàn lang tịch.
Tương dữ chẩm tịch hồ chu trung,
Bất tri đông phương chi ký bạch.
Dưới đây là bản dịch ra văn vần của Quân công thị (Hoằng Hóa Quận vương), con thứ 66 của vua Minh Mạng:
Năm Nhâm tuất mùa thu tháng bảy,
Mới qua rằm trăng hãy còn hin.
Ông Tô cùng khách dời thuyền.
Chơi nơi Xích Bích gần miền Kinh Châu.
Gió phảng phất dòng sâu sóng lặng,
Cất chén mời khách hẳn vui ưa;
Ngâm nga Nguyệt xuất thi xưa,
Liền câu yểu điệu cảnh giờ khéo in.
Phương đông thoắt trăng lên chóp núi,
Trong Đẩu, Ngưu noi dõi dần dà;
Sông trong, nước rạng bao la,
Ngang giăng móc trắng, là đà trời xanh.
Bồng một chiếc thích tình hứng cảnh,
Nước mênh mang muôn khoảnh xông pha;
Phới như cỡi gió bay qua,
Nương không lóng biết đâu là đến đâu.
Phơ phơ giống đời hầu có một,
Bỏ phàm trần cởi lốt lên tiên;
Chừng khi ấy dốc rượu liền,
Vui chi xiết gõ mạn thuyền ca xoang.
Trổi một khúc: "Thuyền lan, chèo quế,
"Vỗ trong ngần ngược vẻ rạng trôi;
Đăm đăm luống dạ ai hoài,
Mỹ nhân trông tưởng cách trời một phương."
Thổi tiêu sẵn có chàng đạo sĩ,
Nương lời ca rủ rỉ họa theo;
Cô cô loan phượng tiếng kêu,
Dở hờn, dở khóc, dở chiều, dở than!
Tiếng thừa thãi khoan khoan réo rắt,
Rõ ràng nghe chẳng dứt như tơ;
Đầm sâu giao lặn mưa kỳ
Thuyền không gái góa sầu bi lỡ đường.
Đông Pha lão nghe tường buồn bã,
Sửu bào ngồi hỏi gã thấp cao;
Hỏi rằng: "Do dĩ làm sao,
Tiệc vui thổi khúc tiêu tao lấy gì?
Khách dẫn thi: "Tinh hy nguyệt bạch,
Mạnh Đức ngâm Xích Bích phải không?
Xanh xanh đoái khắp tây đông,
Vũ Xương, Hạ Khẩu non sông tí mù.
Ấy chẳng phải đánh đua tài trí,
Nên Tào Man khốn bị Chu Lang;
Đương sơ Kinh địa phá tan,
Giang Lăng cũng đã tro tàn dòng xuôi.
Thuyền ngàn dặm nối đuôi giữa sóng,
Cờ muôn cơn rợp bóng trên không;
Rượu thi tới bến gác dòng,
Hùng tài tót thế gẫm không ai bì.
Đến giờ há còn chi đâu có?
Huống nữa là ngư nọ tiều kia.
Đòi ta bãi bạc, cồn le,
Vui vầy tôm cá, bạn bè hươu nai.
Lênh đênh vãi thuyền chài một lá,
Hê ha khuyên rượu lã vài hồ;
Dầm vàng gởi cái phù du,
Dự chi hốt thóc xô bồ biển thương.
Đời người gẫm thảm thương thấm thoắt,
Sông giang khen dài dặc không cùng;
Giày phi tiên cắp thung dung,
Ôm châu minh nguyệt muốn cùng dài lâu.
Liệu chẳng khá kíp cầu mà đặng,
Đem tiếng thừa phải nhắn gió đông".
Ông rằng: "Này khách biết không?
Mặt trăng phải tỏ, lòng sông phải dò.
Nước chảy mãi có mô trôi thẳng,
Trăng khuyết tròn trọn chẳng tiêu hao.
Hãy coi lẽ biến làm sao,
Lại coi chẳng biến thế nào thời hay.
Biến nháy mắt trời xoay đất trở,
Chẳng biến thời như rứa đeo tai;
Vật người chẳng hết còn hoài,
Có gì mà lại dong dài khong khen.
Vả lại xét trong nền Tạo hóa,
Các vật đều có gã chủ trương;
Dầu ta không có nõ màng
Mảy lông chớ đúng, muôn vàn kể chi.
Vui mặt nước những khi êm mát,
Cùng đầu non mấy lượt thanh tao.
Trăng thanh gió mát nghêu ngao,
Trăng non, gió nước dồi dào hòa hai.
Tiếng không hẹn lọt tai càng đớt
Sắc tình cờ vào mắt mà nên;
Mua vui nào phải tốn tiền
Tai dùng không chán, mắt nhìn không no.
Ấy tạo vật là kho vô tận
Ta cùng ngươi chỗ sẵn chơi chung".
Khách cười chi xiết mừng lòng,
Vội vàng rửa chén, rắp mong nghiêng bầu.
Cơm rượu thảy hồi lâu ráo xáo,
Chén bát đà lộn lạo ngửa nghiêng;
Cùng nhau chiếu gối trong thuyền,
Không dè trời đã rạng liền hướng đông.
Trong bài hát nói "Chữ nhàn" của Nguyễn Công Trứ có câu:
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm tuất.
Để ông Tô riêng một thú thanh cao,
Chữ nhàn là chữ làm sao?
Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm, người ở Mi Sơn (huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), con của Tô Tuân, anh của Tô Triệt. Cả ba cha con đều là văn gia trứ danh đời nhà Tống, được người đương thời hâm mộ và gọi là "Tam Tô".
Tô Thức làm quan đời Tống Nhân Tông. Đến triều Thần Tông, Vương An Trạch lên làm tể tướng, thi hành việc cải cách chính trị, Tô Thức cùng em dâng sớ lên Thần Tông, công kích dự án tân pháp của họ Vương; và vì xúc phạm đến quan tể tướng nên Tô Thức phải bị biếm ra Hàng Châu, rồi Hồ Châu, Hoàng Châu, Huệ Châu và Quỳnh Châu.
Trong thời gian ở Hoàng Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), Tô Thức làm nhà ở Đông Pha (sườn đồi phía đông) nên lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ.
Ở đây, ông có làm hai bài "Tiền Xích Bích phú" và "Hậu Xích Bích phú". Xích Bích là tên một dãy núi tại huyện Gia Ngư, tỉnh Hồ Bắc trên bờ phía nam sông Dương Tử.
Đây là một di tích lịch sử.
Năm Kiến An thứ 13 (dương lịch 208), Tào Tháo, chúa Bắc Ngụy đã thua to tại đó vì bị tướng của Đông Ngô Tôn Quyền là Chu Du dùng trận hỏa công đốt sạch chiến thuyền. Hai bên bờ sông vì lửa đốt cháy đỏ nên người ta mới gọi là"Xích Bích" (vách đỏ).
Tô Thức bị trích ra Hoàng Châu, tức huyện Hoàng Cương ngày nay, thuộc tỉnh Hồ Bắc nhưng cách xa huyện Gia Ngư. Tại Hoàng Châu có một dãy núi đá sắc đỏ cũng gọi là Xích Bích hoặc "Xích tị cơ", Tô Thức nhân đi chơi đến đây là bài Xích Bích phú.
Trong "Thanh nhứt thống chí" có dẫn lời của Hồ Khuê trong "Xích Bích khảo" cho rằng: "Tô Tử Chiêm đã lầm lẫn Xích tị cơ tại Hoàng Châu với Xích Bích tại huyện Gia Ngư". Nhưng thiết nghĩ có lý nào một người như Tô Thức mà lại lầm lẫn một việc quá tầm thường đối với một di tích danh tiếng trong lịch sử được. Có lẽ vì hai nơi trùng tên nên ông Tô liên tưởng đến việc Tào Tháo, Chu Du đời Tam Quốc; và nói đến trong bài phú với dụng ý luận anh hùng và ký thác tâm sự.
Ông sáng tác Xích Bích phú trong thời gian bị biếm trích, tâm hồn đương đau khổ và chán nản nên muốn tìm nguồn an ủi ở những lẽ phi thường. Bởi vậy, trong bài có những tư tưởng tiêu sái, phóng khoáng, siêu thoát.
Tô Thức là một nhà văn thơ lỗi lạc. Văn của ông hàm súc, bôn phóng; thơ cũng tuấn dật, thanh cao. Nét chữ của ông lại đẹp, vẽ khéo, đúng là một văn hào, thi gia kiêm nghệ sĩ.
Bài Tiền Xích Bích phú hay hơn bài Hậu Xích Bích phú. Vì thế bài Tiền Xích Bích phú đã được nhiều văn gia thi sĩ dịch ra Việt văn như Phạm Sĩ Vy, Phan Kế Bính, v.v...
Nguyên tác:
Nhâm tuất chi thu,
Thất nguyệt kỳ vọng:
Tô tử dữ khách phiếm chu,
Du ư Xích Bích chi hạ.
Thanh Phong từ lai, thủy ba bất hưng.
Cử tửu chúc khách
Tụng Minh nguyệt chi chi,
Ca yểu điệu chi chương
Thiểu yên, nguyệt xuất ư đông chi thượng,
Bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi gian.
Bạch lộ hoành giang,
Thủy quang tiếp thiên.
Túng nhất vĩ chi sở như,
Lăng vạn khoảng chi mang nhiên
Hạo hạo hồ như bằng hư ngự phong,
Nhi bất chi kỳ sở chỉ.
Phiêu phiêu hồ như di thế độc lập,
Vũ hóa nhi đăng tiêu.
Ư thị ẩm tửu lạc thậm,
Khấu huyền ca nhi.
Kỳ ca viết: "Quế trạo hề lan tương,
Kích không hề tố lưu quang.
Diếu diếu hề dư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhứt phương".
Khách hữu xuy động tiêu gaỉ,
Ỷ ca nhi họa chi.
Kỳ thanh ô ô nhiên,
Như oán, như mộ, như khấp, như tố.
Dư âm niệu niệu,
Bất tuyệt như lũ.
Vũ u hác chi tiềm giao,
Khấp cô chu chi ly phụ.
Tô tử thiểu nhiên,
Chính khâm nguy tọa.
Nhi vấn khách viết:
"Hà nhi kỳ thiên dã?" Khách viết:
"Nguyệt minh linh hy, ô thước nam phi;
Thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ?
Tây vọng Hạ khẩu, đông vọng Vũ Xương;
Sơn xuyên tương liễu, uất hồ thương thương.
Thử phi Tào Mạnh Đức
Chi khốn ư Chu lang giả hồ?
Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng,
Thuận lưu nhi đông dã;
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ tế không.
Si (ly) tửu lâm giang, hoành sáo phú thi;
Cố nhất thế chi hùng dã.
Nhi kim an tại tai!
Huống ngô dữ tử,
Ngư tiều ư giang chữ phi thượng;
Lữ ngư hà nhi hữu mi lộc;
Giá nhất diệp chi thiên chu,
Cử bào tôn dĩ tương chúc.
Ký phù du ư thiên địa,
Diểu thương hải chi nhất túc.
Ai ngô sinh chi tu du,
Tiện trường giang chi vô cùng.
Hiệp phi tiên dĩ ngao du.
Bão minh nguyệt nhi trường chung.
Tri bất khả hồ sậu đắc,
Thác di hưởng ư bi phong."
Tô tử viết: "Khách diệt tri
Phù thủy dữ nguyệt hồ?
Thệ giả như tư, nhi vị thường vãng dã.
Doanh hư giả như bỉ, nhi tốt mạc tiêu trường dã.
Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi,
Tắc thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn;
Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi,
Tắc vật dữ ngã.
Giai vô tận dã;
Nhi hựu hà tiện hồ?
Thả phù thiên địa chi gian,
Vật các hữu chủ.
Cẩu phi ngô chi sở hữu.
Tuy nhất hào nhi mạc thủ.
Duy giang thượng
Chi thanh phong,
Dữ sơn gian,
Chi minh nguyệt;
Nhĩ đắc chi nhi vi thanh,
Mục ngộ chi nhi thành sắc;
Thủ chi vô cấm,
Dụng chi bất kiệt.
Thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã,
Nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích".
Khách hỷ nhi tiếu,
Tẩy trản cách chước;
Hào hạch ký tận,
Bôi bàn lang tịch.
Tương dữ chẩm tịch hồ chu trung,
Bất tri đông phương chi ký bạch.
Dưới đây là bản dịch ra văn vần của Quân công thị (Hoằng Hóa Quận vương), con thứ 66 của vua Minh Mạng:
Năm Nhâm tuất mùa thu tháng bảy,
Mới qua rằm trăng hãy còn hin.
Ông Tô cùng khách dời thuyền.
Chơi nơi Xích Bích gần miền Kinh Châu.
Gió phảng phất dòng sâu sóng lặng,
Cất chén mời khách hẳn vui ưa;
Ngâm nga Nguyệt xuất thi xưa,
Liền câu yểu điệu cảnh giờ khéo in.
Phương đông thoắt trăng lên chóp núi,
Trong Đẩu, Ngưu noi dõi dần dà;
Sông trong, nước rạng bao la,
Ngang giăng móc trắng, là đà trời xanh.
Bồng một chiếc thích tình hứng cảnh,
Nước mênh mang muôn khoảnh xông pha;
Phới như cỡi gió bay qua,
Nương không lóng biết đâu là đến đâu.
Phơ phơ giống đời hầu có một,
Bỏ phàm trần cởi lốt lên tiên;
Chừng khi ấy dốc rượu liền,
Vui chi xiết gõ mạn thuyền ca xoang.
Trổi một khúc: "Thuyền lan, chèo quế,
"Vỗ trong ngần ngược vẻ rạng trôi;
Đăm đăm luống dạ ai hoài,
Mỹ nhân trông tưởng cách trời một phương."
Thổi tiêu sẵn có chàng đạo sĩ,
Nương lời ca rủ rỉ họa theo;
Cô cô loan phượng tiếng kêu,
Dở hờn, dở khóc, dở chiều, dở than!
Tiếng thừa thãi khoan khoan réo rắt,
Rõ ràng nghe chẳng dứt như tơ;
Đầm sâu giao lặn mưa kỳ
Thuyền không gái góa sầu bi lỡ đường.
Đông Pha lão nghe tường buồn bã,
Sửu bào ngồi hỏi gã thấp cao;
Hỏi rằng: "Do dĩ làm sao,
Tiệc vui thổi khúc tiêu tao lấy gì?
Khách dẫn thi: "Tinh hy nguyệt bạch,
Mạnh Đức ngâm Xích Bích phải không?
Xanh xanh đoái khắp tây đông,
Vũ Xương, Hạ Khẩu non sông tí mù.
Ấy chẳng phải đánh đua tài trí,
Nên Tào Man khốn bị Chu Lang;
Đương sơ Kinh địa phá tan,
Giang Lăng cũng đã tro tàn dòng xuôi.
Thuyền ngàn dặm nối đuôi giữa sóng,
Cờ muôn cơn rợp bóng trên không;
Rượu thi tới bến gác dòng,
Hùng tài tót thế gẫm không ai bì.
Đến giờ há còn chi đâu có?
Huống nữa là ngư nọ tiều kia.
Đòi ta bãi bạc, cồn le,
Vui vầy tôm cá, bạn bè hươu nai.
Lênh đênh vãi thuyền chài một lá,
Hê ha khuyên rượu lã vài hồ;
Dầm vàng gởi cái phù du,
Dự chi hốt thóc xô bồ biển thương.
Đời người gẫm thảm thương thấm thoắt,
Sông giang khen dài dặc không cùng;
Giày phi tiên cắp thung dung,
Ôm châu minh nguyệt muốn cùng dài lâu.
Liệu chẳng khá kíp cầu mà đặng,
Đem tiếng thừa phải nhắn gió đông".
Ông rằng: "Này khách biết không?
Mặt trăng phải tỏ, lòng sông phải dò.
Nước chảy mãi có mô trôi thẳng,
Trăng khuyết tròn trọn chẳng tiêu hao.
Hãy coi lẽ biến làm sao,
Lại coi chẳng biến thế nào thời hay.
Biến nháy mắt trời xoay đất trở,
Chẳng biến thời như rứa đeo tai;
Vật người chẳng hết còn hoài,
Có gì mà lại dong dài khong khen.
Vả lại xét trong nền Tạo hóa,
Các vật đều có gã chủ trương;
Dầu ta không có nõ màng
Mảy lông chớ đúng, muôn vàn kể chi.
Vui mặt nước những khi êm mát,
Cùng đầu non mấy lượt thanh tao.
Trăng thanh gió mát nghêu ngao,
Trăng non, gió nước dồi dào hòa hai.
Tiếng không hẹn lọt tai càng đớt
Sắc tình cờ vào mắt mà nên;
Mua vui nào phải tốn tiền
Tai dùng không chán, mắt nhìn không no.
Ấy tạo vật là kho vô tận
Ta cùng ngươi chỗ sẵn chơi chung".
Khách cười chi xiết mừng lòng,
Vội vàng rửa chén, rắp mong nghiêng bầu.
Cơm rượu thảy hồi lâu ráo xáo,
Chén bát đà lộn lạo ngửa nghiêng;
Cùng nhau chiếu gối trong thuyền,
Không dè trời đã rạng liền hướng đông.
Trong bài hát nói "Chữ nhàn" của Nguyễn Công Trứ có câu:
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm tuất.
Để ông Tô riêng một thú thanh cao,
Chữ nhàn là chữ làm sao?
Gửi ý kiến của bạn