Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di Đà Tự tánh, Duy tâm Tịnh độ

10/05/201704:03(Xem: 7709)
Di Đà Tự tánh, Duy tâm Tịnh độ



Duc Phat Di Da 8


Di Đà Tự tánh, Duy tâm Tịnh độ


 

 

Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm.

 

Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".

 

Những người nầy tưởng là họ cao siêu, thật ra họ rất nông cạn! Họ không hiểu là nếu cõi Ta-bà là duy tâm thì cõi Tịnh độ cũng duy tâm, và không có pháp nào ở ngoài tâm ta. Do đó, niệm Phật A Di Đà là niệm đức Phật của Tự tánh và bản tâm; vãng sanh Tịnh độ là trở về thế giới của tự tâm - khộng phải bên ngoài!. Bởi vì cõi Ta-bà cũng như cõi Tịnh độ đều không ngoài bản tâm - nếu ở lại cõi Ta-bà nầy, phải luân hồi và chịu sư thiêu đốt của Ngũ trược, sao bằng sanh về cõi Tịnh độ thanh tịnh và an lạc ở phương Tây? Vô số người đã được vãng sanh Cực lạc với thoại chứng rành rành, chứng tỏ Tây phương Cực Lạc là cõi có thật như cõi Ta-bà của chúng ta. Chúng ta phải hiểu ra rằng những người đủ tư cách để thọ dụng Duy tâm Tịnh độ là những bậc đã chứng Pháp thân Tự tánh (tức chư Phật) - và luôn luôn tự tại thong dong trong mọi hoàn cảnh. Tới mức nầy thì dầu là đang ở cõi Ta-bà hay Tịnh độ, các bực thánh nhân đó vẫn ở tịnh độ của bản tâm, hay Duy tâm Tịnh độ - tức là hoàn toàn giải thoát. Trái lại, dầu cho hành giả có thuyết lí cao siêu đến đâu về cõi Tịnh độ, họ sẽ không thoát khỏi sự mê muội trong khi cách ấm và sẽ theo nghiệp mà tái sanh trong chu trình Sanh Tử.

 

Câu hỏi: "Tôi lại nghĩ rằng, phải chăng vãng sanh Tịnh độ là trái ngược với nghĩa Vô sanh?"

 

Trả lời: Tổ Trí Giả nói rằng: "Người minh triết, trong khi cật lực tu hành để được vãng sanh Tịnh độ, cũng hiểu rằng tánh của Sanh thật ra là rỗng không. Đây mới thật là Vô sanh và là nghĩa của câu: "Khi tâm thanh tịnh thì cõi Phật cũng thanh tịnh." Trái lại, những người ngu dốt bị dính mắc trong khái niệm "Sanh". Khi nghe nói "Sanh" thì họ hiểu là sanh thật. Khi nghe nói Vô Sanh, họ hiểu là chỗ nào cũng không sanh. Họ không nhận ra rằng "Sanh thật ra là Không sanh" và "Không sanh" không ngăn trở "Sanh". Một thiền sư đã nói: "Nếu chúng ta hiểu Sanh là Sanh thật thì chúng ta lạc vào thuyết "Hằng hữu "; nếu ta hiểu Không sanh là thật không có sanh thì ta lạc vào thuyết "Hư vô" "Sanh mà Không sanh", Không sanh mà Sanh" là nghĩa tối hậu. Một thiền sư khác nói: "Sanh là thật có sanh, nhưng sanh về Tịnh độ thật ra không có về". Lời giảng của ba vị thiền sư nầy rất rõ ràng. Tôi nay giảng rộng hơn với hai khái niệm Tánh và Tướng. Trên phương diện Tánh thì bản tâm vi diệu và yên lặng, tánh của nó vốn không sanh (Vô sanh). Trên phương diện Tướng, khi nào có sự tụ họp của nguyên nhân và điều kiện, thì các tướng Sanh và Diệt huyễn hiện từ chân tâm, như trong mộng. Bởi vì Tánh thường hiện qua Tướng, ta nói Không Sanh là Sanh. Bởi vì Tướng hiện ra do Tánh, ta nói Sanh là Không Sanh. Khi ta thật hiểu được nghĩa nầy, thì sanh Tịnh độ là sanh ở tánh của Bản tâm, giữa Sanh và Không Sanh không có nghĩa trái ngược!

 

(‘Self-nature Amitabha’, Seeker’s Glossary of Buddhism, p. 411-413, Thích Phước Thiệt dịch)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2024(Xem: 298)
Đức Phật là Đại Y Vương, bậc tuệ tri mọi pháp, Thầy của trời người. Sau khi giác ngộ, trở thành bậc Chánh Đẳng Giác. Ngài đi khắp nơi thuyết pháp độ sinh, kết quả là độ thoát vô số chúng hữu tình, đặc biệt để lại cho đời một kho tàng Chánh Pháp mà theo đó tùy theo căn cơ, sở trường của hành giả ứng dụng để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Những gì Ngài thuyết là từ tự thân thực chứng của Ngài (chứ không nghe từ ai cả), có nghĩa có văn từ sơ thiện, trung thiện cho đến hậu thiện, thiết thực trong hiện tại, có khả năng hướng thượng, nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, đến để mà thấy, được người trí tự mình giác hiểu.
15/10/2024(Xem: 558)
Đây là câu hỏi hay, cũng là vấn đề khó biện giải bằng thức tri và tưởng tri của một người học Phật, ngoài trừ Bậc Tuệ Tri Mọi Pháp, Bậc Toàn Thiện, Toàn Giác, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điệu Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn mới có thể làm cho vấn đề sáng tỏ, làm cho khai thị, làm cho khai ngộ, làm cho minh hiển "như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc... "
06/10/2024(Xem: 601)
Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Pháp sư Huệ Viễn được coi là Tổ đầu tiên của Tịnh tông Trung Hoa; thành lập Bạch Liên Xã quy tụ được hơn ba ngàn cả tăng lẫn tục toàn các bậc hào kiệt trong đời, trong đó có 18 vị là bậc thượng thủ, để lại cho hậu thế đời sau vô số câu chuyện vãng sinh ly kỳ. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Viên, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu cả Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo và Đại thừa đốn giáo. Đốn, vì tông này không luận bàn về pháp tướng mà chỉ chuyên về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển. Đây chính là những điểm siêu xuất, đặc thù của tông Tịnh Độ.
20/09/2024(Xem: 1471)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 639)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 873)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 1726)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
28/06/2024(Xem: 1965)
Bố thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát. Suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh bố thí và cúng dường.
06/05/2024(Xem: 1109)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.
16/04/2024(Xem: 1173)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]