THEO TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Thích Trí Giải
Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.
Tất cả tôn giáo đều có những quan điểm định hướng cho lý tưởng khác nhau, mục đích đều hướng dẫn đạo đức con người hoàn thiện và xây dựng xã hội tốt đẹp, yêu cầu tất yếu mỗi tôn giáo cần phải phá vỡ sự mâu thuẫn, xung đột xảy ra cùng nhau định hướng chung mục đích quan tâm đến hòa bình.
Đạo Phật được xem làtôn giáo bất bạo động đóng góp rất nhiều cho nền hòa bình thế giới, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Đại thừa phát triển và ảnh hưởng rộng rãi vào những quốc gia Châu Á như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam…trong suốt hàng ngàn năm qua, dùng lý tưởng từ bi và trí tuệ, thiết lập hệ thống giá trị đạo đức nhân bản cho con người, tránh xa những bạo động, đặc biệt truyền thống ăn chay.
Phật giáo Đại thừa luôn nhấn mạnh, phổ biến lòng từ bi đối với chúng sinh được thể hiện trong giới luật (vinaya)
Giới xuất gia:
Tỳ kheo 250 giới [1] ,
Tỳ kheo ni 341 giới [2] ,
Sa di, Sa di ni 10 giới [3] .
Giới tại gia: Ưu bà tắc, Ưu bà di: 5 giới [4] ,
Thập thiện giới [5]
Giới thứ nhất cấm sát sinh trong các loại giới, và giới thứ ba trong Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới. Và Đại thừa Bồ tát giới trong Kinh phạm võng gồm;
10 giới trọng, [6]
và 48 giới khinh [7]
Mục đích Phật chế giới là để ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại sinh mạng, còn những giới khác để ngăn ngừa các điều ác từ thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không cho phát sinh. Nếu Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni vi phạm Ba-la-di (pārājikā) trục xuất khỏi Tăng đoàn, nếu phạm Ba-dật-đề thì được sám hối.
Trong 10 giới trọng của Bồ tát giới gồm có; giới sát sinh, giới trộm cướp, giới dâm dục, giới vọng ngữ, giới bán rượu giới nói lỗi tứ chúng, giới khen mình chê người, giới xan tham, giới cố giận hờn, giới phỉ báng Tam bảo, được phân chia theo ba nghiệp như sau:
Thân nghiệp: giới sát sinh, giới trộm cướp, giới dâm dục và giới bán rượu
Khẩu nghiệp: giới vọng ngữ, giới nói lỗi tứ chúng, giới khen mình chê người,
Giới phỉ báng Tam bảo
Ý nghiệp: giới xan tham, giới cố giận hờn
Chia theo loại phiền não:
Tham: giới trộm cướp, giới dâm dục, giới xan tham
Sân: giới sát sinh, giới nói lỗi tứ chúng, giới giận hờn
Si: giới phỉ báng Tam bảo, giới bán rượu và giới vọng ngữ [8]
Giới không sát sinh [9] rất quan trọng trong tất cả truyền thống Phật giáo, mục đích ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại sinh mạng và khuyến hóa mọi người tránh xa bạo động chiến tranh gây đau khổ cho nhân loại. Chẳng những đức Phật cấm không được sát bất kỳ hình thức nào, Bồ-tát còn phải vâng giữ các khinh giới, như không cất chứa vũ khí, không buôn bán những khí cụ sát sanh, hay các loại vũ khí giết người, cho đến không đi sứ làm môi giới khiến cho chiến tranh giữa các quốc gia nổ ra. [10]
Những giới khinh nhằm ngăn ngừa những bất thiện pháp khỏi phát sinh, ngăn ngừa không cho phạm trọng tội Ba-la-di, theo quan điểm của Phật giáo thì những tội ác xuất phát từ ba độc tố trong tâm thức mỗi người, đó là tham, sân và si. Vì thế Phật giáo Đại thừa luôn nhấn mạnh thực hành lý tưởng từ bi và trí tuệ của Bồ-tát để chuyển hóa tâm thức, từ bi hóa giải tâm sân hận, trí tuệ tiêu diệt tâm tham và si.[11]
Lòng từ bi của Bồ-tát là linh dược để chuyển hóa khổ đau của tha nhân, tinh thần bất bạo động của Phật giáo dựa trên nguyên tắc hoạt động đạo đức của con người về hành vi tốt xấu, đúng và sai. Giới luật là quy tắc đạo đức cho Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vì thế khái niệm bất bạo động và từ bi trong Phật giáo được sánh với giới luật của các trường phái khác nhau của Phật giáo, đặc biệt là Bồ-tát-giới. [12]
Phật giáo Đại thừa toàn bộ với các giáo lý dựa vào lòng từ bi là yêu cầu đầu tiên, vì lòng từ bi ngăn chặn hoặc kiêng cữ hoàn toàn vấn đề giết hại chúng sinh
Người Phật tử giết hại sinh vật vi phạm nguyên tắc đạo đức, tinh thần bất bạo động (ahiṃsā) và làm trái ngược lời Phật dạy.
Vì để tránh giết hại sinh vật, những người Phật tử theo truyền thống Đại thừa thực hành theo văn hóa ăn chay được ảnh hưởng rộng rãi vào những đất nước Phật giáo Đại thừa ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, được nhiều người hưởng ứng thực hành theo Kinh điển và giới luật của Đại thừa, vấn đề này được diễn tả trong kinh Thủ-lăng-nghiêm (首楞嚴經) nói rằng; “nếu tâm tham không tiêu diệt, thì chúng sinh sinh ra từ thai sinh, noãn sinh, và thấp sinh sẽ chuyển đổi nhau sử dụng sức mạnh giết hại nhau để làm thức ăn, điều này xuất phát chủ yếu từ tâm tham của mình giết hại sinh mạng. Vì vậy, nếu có một người nào giết một con cừu hay một con vật khác để ăn thịt, thì con cừu ấy sẽ tái sinh lại làm con người, và con người ấy sau khi chết tái sinh lại làm con cừu để trả nợ cũ của mình” [13]
Tất cả giáo lý của đức Phật hoàn toàn thực tế rất quan trọng đối với nhân loại rằng: Con người trên trái đất không có tội lỗi nào lớn hơn giết hại sinh mạng, và cũng không có nguồn tích lũy công đức nào hơn đó là bảo vệ mạng sống của chúng sinh. Chúng ta cố gắng giải cứu mạng sống của chúng sinh đang gặp hoàn cảnh nguy hiểm là chúng ta tiến xa một bước đang thực hành từ bi, cứu vớt sự khổ đau của chúng sinh là tâm hạnh lợi tha của Bồ-tát [14]
Vì lòng từ bi nghĩa là chia sẻ khổ đau cùng với tha nhân và bản chất của từ bi là để quán sát sự đau khổ của tất cả chúng sinh.
Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa luôn đề cao lý tưởng Bồ tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ) để bước vào quả vị Phật. Trong Kinh điển Bát-nhã, thì trí tuệ (Bát nhã ba la mật) được xem là nhân tố quan trọng nhất, nó bao trùm với năm pháp ba-la-mật còn lại.
Nếu hành giả tu hành thiếu trí tuệ thì không hoàn thành quả vị Phật, khác nào như người mù đang đi về một phương trời vô định, sẽ gặp rất nhiều chướng ngại, chông gai và không về đến đích
Do đó Bồ tát Shāntideva nói rằng; “sự yếu đuối của một vị Bồ-tát rất tai hại vì một khi phạm lỗi, Bồ-tát sẽ làm liên lụy đến sự giải thoát của vô lượng chúng sinh”
Ngoài Lục độ và Tứ vô lượng tâm, Bồ-tát còn hành trì Tứ nhiếp pháp để nhiếp hóa mọi người, Tứ nhiếp pháp bao gồm:
Bố thí (Dāna) là sự cứu giúp chúng sinh trên phương tiện vật chất cũng như tinh thần, không có nhu cầu tư lợi, bố thí vật chất giúp con người thoát khỏi trong lúc đói khổ trong đời này. Bố thí pháp là cứu giúp chúng sinh đời sống tinh thần tu hành giải thoát sinh tử
Ái ngữ (piyavācā) là lời nói chân thật, hòa nhã mang lại lợi ích cho mọi người tránh gây xung đột, thù hận
Lợi hành (atthacariyā) vì lòng từ bi làm lợi ích cho mọi người, và xây dựng xã hội chân thiện mỹ
Đồng sự (samānattatā) là hòa đồng vào mọi người và mọi hoàn cảnh để cứu độ chúng sinh thoát khổ đau
Bồ-tát dùng trí tuệ nhìn thấu khắp nỗi khổ chúng sinh, Bồ-tát vì lòng từ bi cao thượng vận dụng hết mọi khả năng của mình để cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau, Đại thừa gọi là vô công dụng hạnh (anābhoga) chính vì từ bi và trí tuệ giúp Bồ tát đạt đến tâm vô phân biệt.
Như DT. Suzuki trích dẫn tác phẩm; “Bồ đề tâm” của ngài Long-Thọ (Nāgārjuna): “tính chất thiếu yếu của Bồ tát là tâm đại từ bi (Mahākaruṇācitta) và tất cả chúng sinh là đối tượng tình thương yêu của Bồ tát.” [15]
Vì vậy trong luận Du già sư địa nói rằng; nếu các hành giả Bồ-tát nuôi lớn những hạt giống phẫn nộ, sân hận, do đó nhân duyên phát khởi ra miệng nói những lời thô tục, do sự phẫn nộ ấy tay cầm đao, trượng, gây hại, hoặc làm phiền não đến chúng sinh thì hành giả Bồ-tát đó, trong tâm hủy hoại công đức tu hành. [16]
Trong Thập địa kinh luận một tác phẩm rất quan trọng trong Phật giáo Đại thừa nói rằng; một vị Bồ tát không được sử dụng vũ khí bất kỳ hình thức nào, không hận thù và không được giết hại sinh vật, thậm chí ngay trong tư tưởng, tinh thần bất bạo động (ahiṃsā) là một phẩm hạnh cao quý nhất của Bồ-tát nhằm kiêng cữ gây tổn hại đến chúng sinh. [17]
Bất bạo động là sức mạnh của tinh thần, tâm lý học nói tinh thần bất bạo động có thể diễn tả trong tinh thần của từ bi, mọi người thực hành ahiṃsā thì hầu hết là những người yêu quý cuộc sống của mình và không muốn gây tổn thương hay giết hại đến người khác, sự cảm nhận của tình thương yêu được truyền từ trong tư tưởng của người khác. Vì vậy, lòng từ bi là để bảo vệ sự sống đã được nhiều người ủng hộ và thực hành
Có vài trường hợp ngoại lệ giết người vì lòng từ bi, như trong Kinh phương tiện thiện xảo có ghi lại rằng: tiền thân của đức Phật khi còn là một vị Bồ-tát đã giết tên cướp cứu 500 vị thương gia [18]
Trong trường hợp này chúng ta phân tích nhiều khía cạnh:
Nếu vị Bồ-tát đó báo tin cho những người thương buôn biết có cướp, thì chắc chắn những người thương buôn sẽ bạo động giết hại tên cướp để bảo vệ mạng sống của mình, thì những người thương buôn này kiếp sau phải trả quả báo vào địa ngục về tội giết người.
Nếu vị Bồ-tát giữ im lặng thì tên cướp sẽ giết 500 thương buôn, thì ác nghiệp càng sâu nặng, sau khi chết tên cướp phải trả quả báo sẽ rơi vào địa ngục.
Bồ-tát nghĩ rằng trong khi tên cướp chưa giết người tạo ác nghiệp, giết hắn thì sẽ hóa giải nghiệp báo ân oán nhân quả giữa tên cướp và 500 người thương buôn, đồng thời cũng giúp tên cướp và 500 người thương buôn không mang tội sát sinh, không rơi vào Địa ngục.
Trong trường hợp này là theo lý tưởng đại từ bi của Bồ-tát trong ý nghĩa phương tiện thiện xảo giết một người cứu 500 người. Bồ-tát tự mình gánh chịu hậu quả vi phạm giới sát. Nhưng động cơ giết hại không phải hận thù, lòng tham, tư lợi mà xuất phát từ động cơ tích cực, từ trái tim từ bi vị tha, lân mẫn luôn nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh, Bồ-tát phải gánh chịu nỗi khổ của tha nhân về cho mình
Từ bi trong Phật giáo Đại thừa luôn gắn liền với trí tuệ, Bồ tát luôn phát triển trí tuệ (Bát nhã ba-la-mật) để đảm bảo cho hành động từ bi thích hợp và hiệu quả, không ngấm ngầm tư lợi, và trí tuệ ấy được xây dựng dựa trên lý tưởng của Tánh không (Śūnyatā).
Như trong tác phẩm Bodhi-caryāvatāra của ngài Śāntideva “nhận thấy rằng tất cả chúng sinh đều bình đẳng trong sự mong cầu hạnh phúc và tránh xa đau khổ, vì vậy bảo vệ người khác cũng như bảo vệ cho chính mình” [18]
Trí tuệ siêu việt của Bồ-tát luôn nhận thức rằng trong thế gian, con người sở dĩ khổ đau là do họ lấy huyễn làm chơn, lấy giả làm thật, nguồn gốc của khổ đau là do tham ái, vô minh. Vì thế hành giả thực hành tinh thần Bồ-tát đạo cần phải thực tập thiền định để tuệ giác hiển bày dứt trừ phiền não chướng, mây tan mặt trăng hiển hiện. Bồ-tát luôn dùng trí tuệ bát nhã soi đời mình nhìn thấy các pháp vốn vô thường, khổ, không, vô ngã.., và dùng từ bi để hóa giải mọi thù hận
Vì thế trong Kinh điển Đại thừa và tất cả tư tưởng của Phật giáo dựa trên từ bi, những lời Phật dạy có thể hiện qua hai câu nói: “bạn phải giúp đỡ người khác” (toàn bộ giáo lý Đại thừa). “Nếu không thực hiện được, bạn không nên gây tổn hại đến người khác” (toàn bộ giáo lý Hīnayāna or Theravāda)
Giáo lý của hai truyền thống đều dựa trên lý tưởng từ bi, một người Phật tử nếu bạn không đủ khả năng giúp đỡ người khác, ít ra bạn không nên gây tổn hại đến người khác [19]
Bồ tát luôn an trú chánh niệm thanh tịnh trong từng bước chân nhập thế cứu độ chúng sinh, chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Trong kinh Bát-Đại-Nhân-Giác nói về sự nghiệp của Bồ-tát: “luôn luôn biết đủ, sống thanh bần để giữ đạo, chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp” [20]
Trí tuệ như là một kim chỉ nam cho hành giả luôn nhận thức rằng dục vọng con người không bao giờ biết đủ và dừng lại, “lòng tham vô đáy” vì lòng tham dục vọng này con người gây nên bao tội ác, giết người cướp của, tà dâm,…Chính vì dục vọng của tâm tham này dẫn đến bạo động trong cuộc sống làm mất đi tính cân bằng xã hội, và nền hòa bình thế giới. Chúng sinh càng gây tội ác thì trái tim từ bi của Bồ-tát càng đau quằn quại vì lòng thương xót.
Tình thương của Bồ-tát đối với chúng sinh không giống như những thứ tình cảm bình thường ở xác thịt, bởi vì tâm từ bi của Bồ tát luôn mang tính vị tha, vô vị kỷ và xả ly (từ, bi, hỷ, xả) trong Phật giáo Đại thừa ngài Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara (觀 世 音 菩 薩) được biểu trưng cho bản thể tâm từ bi, ngài Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. Mañjuśrī) biểu trưng cho trí tuệ bát nhã, đại trí và đại bi la tổng thể của lý tưởng Đại thừa, để Bồ-tát vào đời độ sinh
Bồ-tát vì lòng từ bi vô biên không hướng đến Phật đạo, các Ngài không muốn thành tựu cứu cánh lý tưởng của riêng mình, Bồ-tát phát nguyện tinh thần nhập thế chăm lo niềm hạnh phúc an lạc cho chúng sinh như Địa Tạng Bồ Tát “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” có nghĩa là “Địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ-đề”. Khi đức Phật hỏi ngài Địa Tạng đã bạch Phật rằng: “Con ở trong cõi đời xấu ác này độ sanh, nhưng vẫn cảm thấy an lạc như đang an trú trong cảnh giới Niết Bàn.”
Tinh thần nhập thế của Bồ tát đạo nhằm hóa độ thế gian theo khuynh hướng chí thiện, con người biết tránh xa nghiệp bất thiện, lòng ích kỷ, cái nhìn phiến diện. Một thi hào người Anh đã viết ra những dòng thơ rất đẹp đẽ và thâm thúy có nhiều ý nghĩa:
“Tôi nhìn anh tôi qua kính hiển vi của sự “chỉ trích”
và tôi nói. "Anh tôi quả thật thô lỗ!"
Nhìn anh tôi qua kính viễn vọng của sự “khinh bỉ”
và tôi nói. "Anh tôi quả thật bé nhỏ thấp hèn"
Rồi tôi nhìn vào "tấm gương chân lý"
Và tôi nói, "Anh tôi thật giống hệt như tôi."
“Trong con người tốt nhất cũng có những khuyết điểm, mà trong con người xấu nhất cũng có những điểm tốt. Tại sao ta chỉ nhìn phần xấu xa tội lỗi mà không để ý đến phần tốt của người? Nếu mỗi người đều nhìn vào phần tốt đẹp của nhau, nhân loại đã tìm được nguồn hạnh phúc dồi dào” [21]
Con người biết thay từng giọt máu hận thù trong tim bằng giọt máu từ bi để rồi từ đó con người biết yêu thương, gắn bó, biết san xẻ cho nhau những nỗi niềm vui, khổ…
HT Thích Nhất Hạnh nói rằng: “tính chất từ bi như là một là một trang web, khi chúng ta phát triển các khía cạnh liên quan đến Bồ Đề tâm, hành động từ bi khi chúng ta thực hành tham gia tích cực với khổ đau trên toàn thế giới, đáp ứng những như cầu cho chúng sinh trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta có khả năng.”[22]
Mỗi người tự nhận thức biết sống hạnh phúc an lạc cho chính bản thân mình, không còn thù hận chém giết lẫn nhau, tạo nghiệp ác, tức là đã biết xây dựng sự tồn tại giá trị nhân bản đạo đức con người chuẩn mực cho nhân loại.
Trong lịch sử của đại đế Asoka (vua A-Dục) vào thế kỷ thứ III tr CN. [23] Sau những cuộc chinh phạt đẫm máu của mình, đại đế Asoka cảm thấy kinh hoàng và hối hận, chính giáo lý của đức Phật đã chuyển hóa cuộc đời của vua Asoka với những chiến thắng quân sự, vũ khí thay bằng chiến thắng đạo đức tâm linh. Sau đó vua Asoka thực hiện tinh thần bất bạo động thực hành theo năm giới, dưới sự cai trị của đức vua Asoka hoàn toàn đã thay đổi chính sách cai trị điềm đạm ôn hòa, từ bỏ lối tra tấn, không bạo lực, dân chúng được che chở mà ngay cả thú vật cũng được bảo vệ, Asoka ra lệnh cấm săn bắn, nhà vua còn kiêng cữ ăn thịt khuyến khích dân chúng ăn chay, ngoài ra nhà vua còn làm nhiều việc phúc lợi cho xã hội cất nhà cho người lữ hành nghỉ chân, xây dựng bệnh viện, các khu an dưỡng, cấp thuốc trị điều dưỡng cho những tù nhân.[24]
Với xu hướng hiện nay các nhà chính trị gia họ luôn có cái nhìn tiêu cực, chính trị là phải dùng thủ đoạn mưu mô, dùng vũ khi chiến tranh làm mục tiêu cho hòa bình. Vì vậy họ trang bị những vũ khí hạt nhân, và những vũ khí tối tân làm phương tiện chiến tranh cho rằng bảo vệ hòa bình. Nhưng thực tế chiến tranh xảy ra bom đạn sẽ gây chết chóc, khủng hoảng tinh thần, bệnh tật,…cho nhân loại.
Vì vậy vấn đề hòa bình thế giới trở thành một mối quan tâm của bao tâm hồn nhân ái, mỗi ngày luôn cầu nguyện hòa bình, chiến tranh đừng xảy ra. Thực trạng hiện nay nhiều cường quốc tranh đấu cho hòa bình bằng cách bỏ ra hàng tỷ USD để trang bị vũ khí tối tân nhằm bảo vệ đất nước, trong khi đó hơn một nửa dân số thế giới lâm vào cảnh nghèo nàn đói khổ. Chính vì sự phân hóa sự giàu nghèo, trong cơ chế kinh tế, là mầm mống tạo ra bạo động xã hội, chiến tranh..
Vì thế các nhà lãnh đạo hòa bình luôn kêu gọi các quốc gia hãy giải quyết tranh chấp bằng phương pháp ngoại giao, thương lượng với nhau tạo mối quan hệ tốt đẹp cho hai bên, tránh xa xung đột chiến tranh vũ trang. Tinh thần bất bạo động ấy được đề cập trong những lời Phật đã khởi xướng: “chiến thắng sinh thù hận, thất bại chuốc khổ đau.” Hoặc trong Kinh pháp cú đức Phật dạy:
Nếu một nhà chính trị thực hành theo lời đức Phật đã dạy thiết lập một xã hội hùng mạnh, hưng thịnh, không có chiến tranh bạo động, , theo bảy nguyên tắc sau:
(1) Sinh hoạt dân chủ,
(2) Tình đoàn kết dân tộc,
(3) Nguyên tắc pháp trị,
(4) Sự hòa hợp các thế hệ,
(5) Tôn trọng phụ nữ,
(6) Tôn kính các tín ngưỡng,
(7) Ưu đãi các bậc minh triết. [25]
Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng; “với tâm niệm tốt, thành thật thì chính trị có thể thành công cụ tốt phục vụ cho xã hội, khi bị thúc đẩy bởi lòng ích kỷ, bởi hận thù, giận dữ và ghen ghét thì chính trị sẽ trở thành sơ bẩn” [26]
Ngài Long Thọ (Nāgārjuna) đã vạch ra đường hướng cai trị đất nước dựa trên bốn nguyên tắc sau:
Việc chuyển hóa tâm thức và đổi mới xã hội không thể tách rời nhau
Vai trò tối hậu của cá nhân trong hành trình giác ngộ là điểm then chốt của đạo đức chính trị
Việc truyền bá chánh pháp tạo cơ hội mọi người tu học thành tựu giác ngộ là yêu cầu quan trọng của nhà lãnh đạo
Nhà lãnh đạo phải tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu kinh tế của mọi người để họ có thời giờ tu học và hành trì chánh pháp, Ngài còn vạch ra một chương trình cụ thể và chi tiết về an sinh, kinh tế xã hội y tế và giáo dục rất nhân bản và tiến bộ [27]
Ngoài ra ngài Long Thọ còn đề ra 10 phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho vị Vua để cai trị đất nước: Vua phải thực hành tinh thần bất bạo động, cấm giết hại sinh mạng (ahiṃsā), cấm trộm cướp, cấm tà dâm, kiểm sóat lời nói của mình, tránh vu khống, triệt để từ bỏ lòng tham, sân, và tránh giải trí những thứ sai trái, kiêng cữ say rượu,… dẫn đến một vị vua chân chính, Ngài khuyến khích vua thực hành những phẩm chất đạo đức ở trên thì vua sẽ được niềm tin đối của thần dân, còn nếu đi ngược lại những quy tắc ấy làm mất niềm tin của thần, dân,.[28]
Trong thế kỷ 21 HT Thích Nhất Hạnh được thế giới xem như một nhà lãnh đạo tinh thần bất bạo động, Ngài luôn kêu gọi, khuyến khích mọi người tham gia vào các hoạt động hòa bình, bằng cách, chuẩn bị trước phát triển nhận thức và giữ chánh niệm để thực hành cho hòa bình trong mọi ứng xử một cách bình tĩnh, thông minh trong mọi phương pháp bất bạo động, trong đó thực hành bất bạo động là điều kiện tiên quyết đối với những người làm công việc xây dựng hòa bình và giáo dục. [29]
Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới vinh danh là người vận động cho những giải pháp hoà bình trong chiến tranh Việt Nam và sau biến cố 11/9/2001 đã thỉnh cầu Hoa Kỳ dùng ngoại giao thay vũ khí ở Afghanistan và Iraq
Khi nào con người trên trái đất này biết nhận thức tinh thần vị tha, biết tôn trọng sự sống, và tin lời Phật dạy trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, có khả năng thành Phật, hình ảnh Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh pháp hoa luôn nhắc nhở chúng ta biết tôn trọng người khác, Mọi người bình đẳng nhau trong dòng máu đỏ, nước mắt cùng mặn, ai cũng ham sống sợ chết, chà đạp lên sinh mạng của kẻ khác đó là sai nguyên tắc đạo đức làm người.
“Giết hại mạng sống của chúng sinh là hành động đáng hổ thẹn và sai lầm bởi vì nó làm tổn hại lòng từ bi, cho nên khi nào chúng ta thực hành tinh thần bất bạo động mới cảm nhận được tình thương và đạt được hạnh phúc miên viễn. Bởi vậy, “bất kỳ nơi nào có từ bi trong trái tim thì nó sẽ biểu hiện ra ngoài tinh thần bất bạo động.” [30]
Đức Phật là bậc Tuệ giác chỉ rõ chúng ta thấy rằng chính ba độc tố: tham, sân, si là nguồn gốc của tội ác, và nguyên nhân bạo động, tạo nên khổ đau cũng đều xuất phát từ ba độc tố này [31].
Chính vì vậy đạo Phật luôn lấy trí tuệ làm sự nghiệp, như là dùng một thanh gươm thật bén để tiêu diệt kẻ thù “vô minh.” Hàng phàm phu bị vô minh che lấp ánh sáng trí tuệ, tâm lý bệnh hoạn, yếu đuối, họ cứ mải mê chạy theo tiếng gọi của tâm thức của trần tục tìm cầu dục lạc thân xác, quên đi vấn đề sinh tử đại sự. Bồ tát Shantideva nói rằng: “…để có thỏa mãn nhục dục, có người tham của tự bán mình để cầu dục lạc nhưng không bao giờ ý thức vì phải luôn hầu hạ kẻ khác, có người vì mưu sống xung vào quân trận bất chấp tánh mạng hiểm nguy, Họ muốn vinh quang nhưng lại chịu cảnh tù đày, những kẻ nô lệ cho ái dục thường lâm vào cảnh khốn cùng, nếu được thỏa mãn thì cũng không hơn gì con trâu kéo cày được thưởng vài cộng cỏ” [32]
Nhưng để có được trí tuệ diệt trừ vô minh, Bồ-tát đã gieo trồng hạt giống Bồ đề tâm vào mảnh đất chân thể, nhờ vào chất liệu từ bi, và hạnh nguyện thì hạt giống ấy sẽ nẩy mầm, đâm chồi và sẽ sinh ra hoa trái trí tuệ.
Tóm lại, Phật giáo truyền bá vào mỗi quốc gia bằng một thái độ ôn hòa, bất bạo động với tinh thần từ bi, trí tuệ, trong suốt hơn 25 thế kỷ qua, Phật giáo chưa bao giờ mở ra cuộc thánh chiến, chưa bao giờ có giọt máu đổ xuống để vun bồi cho sự hưng thịnh của Phật giáo. Phật giáo chỉ mở ra cho chúng sinh con đường hướng thiện, giúp cho con người sống đúng theo quy tắc đạo đức làm người, và xây dựng xã hội văn minh lành mạnh đóng góp cho vấn đề hòa bình thế giới.
Vì vậy Tiến sĩ K. N. Jayatilleke nói rằng: "Chính nhờ lòng từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá khắp một vùng rộng lớn ở Châu Á một cách êm đẹp, không bao giờ có sự can thiệp của vũ lực hay uy thế chính trị, không một giọt máu nào phải đổ trong khi truyền giáo; không một cuộc chém giết nào xảy ra nhân danh Đạo Phật, hay nhân danh Đức Thế Tôn, thật là hãnh diện biết bao!"
T. Trí Giải
______________________________________-
Chú thích:
[1] xem 律比丘戒,T22n1429, p.1015a19.
[2] xem 四分比丘尼戒本 T22n1431,p.1031a03.
[3] xem 沙彌十戒,T24n1471, p. 926b08. Và 沙彌尼戒,T24n1474, p. 937a13.
[4] xem 佛説優婆塞五戒相經,T24n1476, p. 939c15. & xem D. Keown, Buddhist Ethics A Very Short Introduction, Oxford University Press 2005 p. 9.
Xem: B. Lokhande, “Unique Contribution of Buddhism to The World Culture” K. Sankarnarayan (ed) Contribution of Buddhism to world Culture, Somaiya Publishcation 2004 Vol.I. pp. 154-155.
[5] Xem Thập thiện giới kinh 十善戒經 T24n1486 trang 1023a15.
[6] Phạm võng kinh: 梵網經 T24n1484 trang1004b11:
[7] Tiếp theo T24n1484 trang.1006a01:
[8] HT:Thánh Nghiêm, Cương Yếu Giới Luật, TN Tuệ Đăng dịch Nhà xuất bản Thời Đại 2010 Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu, Chương III Giới trọng và Giới Khinh của Bồ Tát Giới
[9]佛言。佛子。若自殺教人殺方便讃歎殺,見作隨喜。乃至呪殺。殺因殺縁殺法殺業。
[10]若佛子。不得畜一切刀杖弓箭鉾斧鬪戰之具。及惡網羅殺生之器。一切不得畜。而菩薩乃至殺父母尚不 加報。況餘一切衆生。若故畜一切刀杖者。犯輕垢罪 T24n 1484 trang 1005c14-17
[11] W. Donner, “The Bodhisattva Code and compassion: A Mahāyāna Buddhist Perspective on Violence and Non violence”, D. Allen (ed) Comparative philosophy and Religion in Times of Terror, p. 123
[12] Tiếp theo., p75.
[13] The Śūraṅgama Śūtra (Leng Yen Ching), C. Luk (tr.) pp. 90-91
[14] C. Rinpoche, “The Benefits of Saving the Lives of Other Beings” (ed) with commentary by Z. Larson, Compassionate Action The teachings of Chatral Rinpoche, pp 43-44
[15] G.S.P. Misra, Development of Buddhist Ethics, p. 28.
[16]若諸菩薩長養如是種類忿纒。由是因縁不唯發起麁言便息。由忿蔽故加以手足塊石刀杖。捶打傷害損惱 有情。内懷猛利 忿恨意樂 xem luận Du già sư địa 瑜伽師地論 T30n1579 trang 515b28-30
[17]H. Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature, p. 199
[18]xem P. Harvey, An Introduction to Buddhist Ethics Cambridge: Cambridgre University Press, 2000 p 135.
[19]The Dalai Lama A Policy of Kindness, S. Piburn (comiled and ed) Motilal Banarsidass Publishers 2002. p. 82
[20] 弟 三 覺 知, 心 無 厭 足, 唯 得 多 求, 增 長 罪 惡, 菩 薩 不 爾, 常 念 知 足, 安貧 守 道, 唯 慧 是 業.
Kinh Bát Đại Nhân Giác.
[21 ] Đức Phật và Phật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch NXB TPHCM, 1998 phần (Tứ vô lượng tâm)
[22] J. Goldstein, One Dharma the emerging western Buddhism, p.124
[23] I. M. Ghosh, Ahiṁsā Budhist and Gandhian, p. 58.
[24] N. Fujii, Buddhism For World Peace, Y. Miyazaki (tr) Sterling Publisher 1997.
[25]長阿含經, T1n1, p. 11a8. xem Dīgha-Nikāya. II.79. M. Walshe (tr.) The Long Discourses of the Buddha. p 231
[26] Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Nói Về Sự Nóng Giận, Hoang Phong chuyển ngữ
[27] Xem Đức Phật và Phật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch NXB TPHCM, 1998
[28] V.V.S. Saibaba “Contribution of Buddhist Ethics and State Craft to World Culture, K. Sankernarayan (ed) Contribution of Buddhism to World Culture, Somaiya Publication 2004 p. 261.
[29] Thich Nhat Hanh. “Ahiṃsā: The Path of Harmlessness.” In David W. Chappell, ed. Buddhist Peacework: Creating Cultures of Peace. Boston, MA: Wisdom Publications. 1999, p. 159
[30] K. T. S Sarao, Origin and Nature of Ancient India Buddhism Department of Buddhist Studies University of Delhi 2002 p. 77.
[31] N. H, Buddhism: “Relevance for Social Uplift Spiritual Progress and Peace in the New Millennium” K. Sankanarayan (ed) Buddhism In Global Perspective , Somaiya Publishcation 2003, Vol. II p. 58.
[32] Tăng Già Việt Nam, Thích Trí Quang, Thích Chơn Thiện, PL 2537.