BƯỚC ĐẦU THỬ NHẬN XÉT
MẤY NÉT TÂM LÝ CỦA NGƯỜI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI
Lê Anh Dũng
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
Khi nghiên cứu tâm lý của người tín đồ Cao Đài, cũng cần lưu ý rằng:
1. Nghiên cứu tâm lý của người tín đồ Cao Đài khác với nghiên cứu những đặc điểm tâm lý của cộng đồng dân cư Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20 đã khiến cho dân Nam Kỳ mau lẹ và đông đảo đi theo đạo Cao Đài.[3]
2. Qua nghiên cứu tâm lý của người tín đồ Cao Đài cũng có thể nhận diện được một số đặc điểm tâm lý dân tộc của người Việt, bởi lẽ đông đảo tín đồ Cao Đài qua gần tám thập niên đã có mặt khắp đất nước, từ hầu hết các tỉnh trong Nam ra miền Trung, rồi Hà Nội và một số tỉnh, thành miền Bắc, nghĩa là đã trở thành một phần của cộng đồng cư dân Việt Nam.
(Lê Anh Dũng là một người nghiên cứu về đạo Cao Đài rất nghiêm túc. Đọc bài của ông sẽ nhận ra nhiều khám phá đặc biệt bằng con mắt nhìn và cách diễn giảng qua ngôn ngữ Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Ông là nhà giáo, đồng thời là tác giả một số sách giáo khoa, văn học… bên cạnh những tác phẩm về đạo Cao Đài cũng như Tam giáo tại Việt Nam. Một số tác phẩm của ông -- kể cả các công trình nghiên cứu về đạo Cao Đài) đã in thành sách, ghi âm vào băng cassettes / CD-rom, hoặc đã đăng trên các báo, tạp chí ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Nhập môn ở Vĩnh Nguyên Tự , Cần Giuộc, Long An, gần 30 năm qua ông là nhân viên phụ trách công tác nghiên cứu, dịch thuật, và đào tạo giáo sĩ-tu sĩ tại CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ CAO ĐÀI GIÁO VIỆT NAM mà danh xưng hiện nay là CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO.
Tại hải ngoại bài trên đồng thời được in ở trang nhà của Thiên-Lý Bửu-Tòa, Đường Về Đại Đạo và Tín Ngưỡng Á Châu.)
SÁCH BÁO THAM KHẢO
[Ban Tôn giáo 1993]. Ban Tôn giáo của Chính phủ CHXHCNVN (Phòng Thông tin Tư liệu. Một số tôn giáo ở Việt Nam, “Đạo Cao đài”, Hà Nội.
[Đinh Văn Hạnh 1999]. Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa của người Việt ở Nam Kỳ. Tp. HCM: Nxb Trẻ.
[Đoàn Trung Còn 1963]. Phật học từ điển, ba quyển. Sài Gòn: Nxb Phật học Tòng thơ.
[Đông Nam Á 1995]. Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Việt Nam – Đông Nam Á: quan hệ lịch sử–văn hóa. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
[Heritage 1994]. American heritage talking dictionary. 3rd edition (CD-rom).
[Hoàng Phê 1992]. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ.
[Nguyễn Công Bình 1995]. Đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu phát triển. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.
[Paulus Của 1895]. Huỳnh Tịnh Paulus Của. Đại Nam quấc âm tự vị. Tome I. A-L. Sài Gòn: Imp. Rey, Curiol & Cie.
[Pigneaux 1999]. Pierre Pigneaux de Béhaine (Bá đa lộc Bỉ nhu). Tự vị Annam Latinh (Dictionarium Anamitico Latinum 1772-1773). Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Thành phố HCM: Nxb Trẻ.
[Phan Thị Yến Tuyết 1993]. Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.
Phổ cáo chúng sanh Đại đạo Tam kỳ phổ độ. Sài Gòn: Imprimerie de l’Union, 1926.
[Thánh ngôn hiệp tuyển 1928]. Đại đạo Tam kỳ phổ độ. Thánh ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Đinh Mão niên. Dakao Sài Gòn: Imprimerie Tam thanh.
[Thông tin 2-1999]. Tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên – Huế, số 2 (24).
[Thông tin 4-1999]. Tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên – Huế, số 4 (26).
[Werner 1981], Jayne Susan. Peasant politics and religious sectarianism: peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam. Connecticut: Monograph Series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies.
Về các xuất xứ trích dẫn, thí dụ [Werner 1981: 4] có nghĩa là đoạn văn được trích ở trang 4, quyển sách của Werner in năm 1981. Về chi tiết quyển sách, xin đọc ở SÁCH BÁO THAM KHẢO sẽ thấy [Werner 1981], Jayne Susan. Peasant politics and religious sectarianism: peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam. Connecticut: Monograph Series No. 23, Yale University Southeast Asia Studies.
[1] Nay ở ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
[2] Psychology: The emotional and behavioral characteristics of an individual, a group, or an activity. [Heritage 1994].
[3] “Không lâu sau khi thành lập, tôn giáo mới này đã có được đông đảo tín đồ ở khắp cả Nam Kỳ. Vào khoảng năm 1930, có từ năm trăm ngàn tới một triệu nông dân theo Đạo, trong lúc tổng số dân là bốn tới bốn triệu rưỡi.”
Nguyên văn: “Soon after its founding, the new religion gained a wide following throughout Cochinchina. Five hundred thousand to a million peasants were converted by 1930, out of a total population of 4 to 4.5 million.” [Werner 1981: 4].
“Số ước lượng tín đồ Cao Đài do Thống đốc Nam Kỳ cho biết, trong một báo cáo gởi Toàn quyền Đông Dương ngày 14-12-1934. Hồ sơ riêng của Thống đốc Pagès.”
Nguyên văn: “Estimate of Cao Dai following given by the French Governor of Cochinchina, in a report to the Governor General of Indochina, Saigon, 14 December 1934. Personal Files of Governor Pagès....” [Werner 1981: 72].
[4] Xem thêm: Lê Anh Dũng, Con đường Tam giáo Việt Nam. Nxb Thành phố HCM, 1994.
[5] A. Đặc điểm địa lý: Có người xem Nam Kỳ là vị trí ngã tư đường của các cư dân và các nền văn hóa, văn minh. [Đông Nam Á 1995: 17].
Có người nói Nam Kỳ đã sớm là vị trí hội tụ các luồng văn hóa Đông Tây, một giao điểm động, thoáng, và mở. [Phan Thị Yến Tuyết: 1993: 308-309].
Có người thấy rằng đồng bằng sông Cửu Long hai mặt giáp biển, trên cùng một châu thổ có những con sông chảy ngược chiều nhau. Nơi đây có sông đổ ra biển Đông, có sông đổ ra vịnh Thái Lan ở phía Tây, và những con sông đó lại được các con kênh nối với nhau, như thể nối nước chảy về bên Đông với nước chảy về bên Tây. [Nguyễn Công Bình 1995: 25].
B. Đặc điểm đa văn hóa: Theo bản đồ Các dân tộc ở Việt Nam do Viện dân tộc học biên soạn có thể thấy rằng ngoài người Việt (Kinh) và Hoa (Hán) ra ở Nam Kỳ còn có bảy dân tộc sau đây: Khơ-me, Cơ Ho, Chăm [Chàm], Mnông, Xtiêng, Mạ và Chu Ru.
Có người cho rằng sự giao lưu văn hóa không chỉ diễn ra giữa các dân tộc đang sinh sống ở Nam Kỳ mà còn với cả các dân tộc bên ngoài như Mã Lai, Xiêm La, Java...và có liên hệ với nền văn minh Nam Á đã lâu đời. [Phan Thị Yến Tuyết 1993: 14-16].
C. Đặc điểm đa tín ngưỡng: Có người tổng kết: “So với các nơi khác, Nam Kỳ là vùng đất có nhiều loại hình tôn giáo và số lượng tín đồ chiếm tỷ lệ cao nhất trong toàn quốc.” [Đinh Văn Hạnh 1999: 5].
[6] Nay thuộc xã Long An, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
[7] Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, Thánh ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Đinh Mão niên. Dakao Sài Gòn: Imprimerie Tam thanh, 108-110 Place Maréchal Foch, 1928, tr. 14. Bản in đầu tiên này có 102 tr.; sau đây sẽ gọi tắt là [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928].
[8] [Lê Anh Dũng 1996: 15].
[9] Không ghi tác giả, 14 trang (18x24 cm), Imprimerie de l’Union, Sài Gòn.
[10] Xem thêm bài Gia Tô giáo trong đạo Cao Đài.
[11] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 77].
[12] Độ là chèo thuyền đưa người qua sông mê vượt biển khổ. Độ (qua sông) chữ Hán có bộ thủy. Đoàn Trung Còn dù thế vẫn giảng độ (không có bộ thủy) là: “Chở người ta bằng đò.” [Đoàn Trung Còn 1963: 570].
[13] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 35].
[14] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 9].
[15] Hồ sơ lưu trữ (phông GouCoch) tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2, thành phố HCM, còn cho thấy có những tín đồ nhiệt thành đã hiến cả nhà riêng, hiến luôn ruộng hương hỏa, v.v... để làm cơ sở xây dựng thánh thất Cao Đài.
[16] Ngày 13-3-1926 đức Cao Đài dạy về lý nhị nguyên: “Phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối làm sao phân biệt cho có thiệt.” [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 13].
[17] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 13].
[18] [Werner 1981: 7] viết: “Hội thánh Cao Đài cũng được tổ chức quy củ, khác hẳn với cách tu hành đang phổ biến ở Việt Nam lúc bấy giờ. Dù rằng ở miền Nam đã có các giáo phái nhỏ thực hành bí giáo huyền môn và sử dụng đồng tử, những đạo giáo ấy đã không cho thấy mức độ tổ chức ngang tầm với đạo Cao Đài, cũng như không có được đông đảo tín đồ như đạo Cao Đài. Mỗi cấp chức sắc Cao Đài đều có được một chức năng nhiệm vụ riêng biệt và được quy định minh bạch, mà từng phương diện của chức năng nhiệm vụ ấy đều có một ý nghĩa biểu trưng.”
Nguyên văn: “The Cao Dai church was also highly organized, in contrast to prevailing religious practice in Viet Nam at the time. Although small religious sects practicing occultism and using mediums had existed in the south, they did not display the same degree of organization nor the mass following of the Cao Dai. Each Cao Dai priestly grade was endowed with a separate and well-defined function, every aspect of which held a symbolic meaning.”
[19] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 38].
[20] Xem thêm: Lê Anh Dũng, Tìm hiểu ý nghĩa, nguồn gốc và cách dịch tên gọi các chức sắc Cửu trùng đài trong đạo Cao Đài. [Thông tin 2-1999: 52-60].
[21] Lúp là một từ Việt cổ, được ghi trong [Paulus Của 1895: 607].
Paulus Của còn ghi: lúp đầu (lấy khăn mà che đậy trên đầu). che lúp (dùng lúp mà che phủ). đội lúp (đội khăn phủ đầu). khăn lúp (khăn dùng mà phủ đầu). Trước Paulus Của, Pierre Pigneaux de Béhaine khi soạn Tự vị Annam Latinh (1772-1773) đã ghi các từ: mũ lúp, lúp đầu. [Pigneaux 1999: 276].
[22] [Hoàng Phê 1992: 539].
[23] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 97].
[24] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 42].
Cũng rất thú vị là những ý tưởng đầy tính “quốc sự” như thế lại được chính thức xuất bản hai năm sau đó (1928) trên đất Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp. Thực tế ngày nay non sông Việt Nam đã liền một dải; đạo Cao Đài cũng đã truyền bá được khắp từ Nam ra Trung, ra Bắc. Sau tháng 4-1975, hoàn cảnh lịch sử xô đẩy dường như đã tạo điều kiện cho các thánh thất Cao Đài có mặt ở rất nhiều nước tại châu Á, Âu, Mỹ, Úc... Ba phần tư của bài thơ trên phải chăng đã thành hiện thực?
[25] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 86].
[26] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 98].
[27] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 38].
[28] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 28].
[29] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 55].
[30] [Thánh ngôn hiệp tuyển 1928: 64].
[31] A. [Werner 1981: 56] viết: “Sự khéo léo tổng hợp truyền thống Tam giáo và sự diễn giải minh bạch, chính xác truyền thống Tam giáo không những tạo ra sức hút văn hóa mãnh liệt mà còn lôi cuốn được phong trào kháng [Pháp] gắn liền với truyền thống này và hãy vẫn còn sinh lực.”
Nguyên văn: “Its skillful synthesis and new formulation of the Tam giáo tradition not only offered great cultural appeal but it grew on the still vital protest movement associated with this tradition.” Xem thêm: Lê Anh Dũng, Vài nhận định về đạo Cao Đài của Jayne Susan Werner. [Thông tin 4-1999: 179-186].
B. Ban Tôn giáo của Chính phủ nhận định:
“(...) nhân dân Nam Kỳ trong cuộc đấu tranh chống áp bức cường quyền, (...) còn có những hình thức đấu tranh bằng tôn giáo. (Tôn giáo ở đây chủ yếu để tập hợp lực lượng.)” [Ban Tôn giáo 1993: 176].
“Vào những năm hai mươi của thế kỷ 20, (...) một nhóm tư sản, địa chủ, tiểu tư sản và công chức, trong đó có nhiều người có tinh thần yêu nước đứng ra vận động thành lập đạo Cao Đài với ý định tập hợp lực lượng quần chúng, chủ yếu là nông dân, chống lại sự kỳ thị chèn ép của thực dân Pháp.” [Ban Tôn giáo 1993: 174].
“Điều này làm rõ thêm đạo Cao Đài lúc mới ra đời lại mang những nội dung chống Pháp và thu hút đông đảo quần chúng tin theo.” [Ban Tôn giáo 1993: 176].
1. Cách lập giáo: Tôn giáo Cao Đài được truyền bá ở thế gian do một Đấng Giáo ChủVô Hình. Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn Giác, Hằng Hữu và thanh quang điển lành của Ngài chiếu phóng khắp nơi trong Vũ Trụ. 2. Cách truyền giáo: Ngài là Đấng Hóa Công hay Đấng Sáng Tạo Vũ Trụ Vạn Vật hay Cha Trời hay Thiên Chúa hay Thượng Đế...trực tiếp mở Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ một cách thần diệu và nhanh chóng phi thường đó là ?Thiên Linh Điển?. Ngài trực tiếp dạy, lập Hiến Pháp nền Đạo, tổ chức Tôn giáo Cao Đài thuộc hữu hình chớ không do Đấng Giáo Chủ mang xác phàm mở Đạo như hai lần Phổ Độ trước. Chư vị Tiền Khai ĐạiĐạo là chư vị từ trên do Ngài cho đầu thai làm người để ti26p tay với Ngài tổ chức nền Đạo ở cõi trần. 3. Phương tiện truyền thông : Đức Thượng Đế truyền thông điển quang của Ngài cho loài người qua đồng tửtrong trạng thái mê như một máy Fax và ngòi bu viết ra chữ là Cơ Bút hay Thần Cơ , Diệu Bút chớ không qua trung gian Đấng Tiên Tri chấp bút trong trạng thái tỉnh mà viết Thánh giáo như xưa hoặc không giao cho Đấng Giáo Chủ mang xác phàm dạy trực tiếp cho đệ tử hay Tông Đồ như hai lần Phổ Độ trước. 4. Luật Đạo và Nghi Lễ: Luật Đạo giống như Hiến Pháp của nền Đạo do chính Đức Thượng Đế ban Sắc cho Đức Giáo Tông, cũng là Vô Vi, viết và Ngài chuẩn để ban hành mà tổ chức nền Đạo( Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ) . Nghi Lễ như cách thờ phượng, cách lạy, Thánh Tượng, Lễ vật... do chính Đức Thượng Đế giáng cơ dạy và giải thích rõ ràng, chớ không do người phàm hay chức sắc trong Giáo Hội trong các Tôn giáo đã có đặt ra theo phong tục địa phương hay ý riêng như hai thời kỳ Phổ Độ trước.Nghi Lễ và Lễ Vật mang một ý nghĩa huyền nhiệm về Huyền Môn Học như , Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tam tài, Ngũ Khí, Bát Quái, Ấn hay vị trí của Cơ sanh Hóacủa Tiên Thiên và Hậu Thiên trong Càn Khôn Vũ Trụ ( Tý và Dần trong bàn tay). 5. Thiên bàn : là cái bản đồ của Càn Khôn Thế giới : Vị trí của Thánh Tượng, đèn, hương, hoa, trà, quả, lư hương, ly rượu, tách trà... là tượng trưng của càn Khôn Vũ Trụ và Tiểu Thiên Địa trong xác thân Tứ Đại. 6. Mục đích và Tôn Chỉ của Đạo Cao Đài : mang tính chất quyết định, nhất thiết và kịp lúc trên con đường giải thoát hay hợp nhứt với Thượng Đế hoặc tiến hoá nhanh trên con đường phản bổn hoàn nguyên : ỈCứu chư vị linh căn xuống thế độ trần mà quên đường về, tự tu kỷ và thiền định mà trở về ngôi vị cũ. ỈGiúp những linh hồn đang tiến hóa tiến nhanh hơn, tự tu kỷ, học thiền và hành thiền theo Pháp Môn Tam Công trong Cơ Phổ Độ mà tiến nhanh kịp lúc khi quả cầu 68 nầy đến ngày tàn, lên quả cầu 67 sống trong cõi nhàn tiếp tục tu hành trên con đường phản bổn hoàn nguyên. 7. Các bài Kinh chứa nội dung huyền nhiệm : Không như các Tôn giáo có trước các bài Kinh là sự tán tụng Đấng Thiên Chúa hay Mantra hay lời Phật dạy không thôi , mà lời Kinh trong Đạo Cao Đài mang đủ các tính chất : vừa tán tụng công đức Đấng Sáng Tạo, chư Giáo Tổ mà còn giải thích lịch sử Đấng Giáo Tổ , tóm tắt lời dạy Đạo, mỗi danh từ là một ý nghĩa sâu xa. Người hành Đạo đọc Kinh để cầu lý, lần lần sẽ hiểu thêm ra, hiểu cách hành thiền để tự giải thoát. Các bài Kinh đýu có dạy về các nguyên lý Vũ Trụ và cách vận chuyển Đạo khi thiền. 8. Đức Thượng Đế và Đức Lão Tử dạy thiền trực tiếp: Đấng Cha Lành và Đức Lão Tử cũng như Đức Ngô Minh Chiêu và chư vị tu theo Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi giáng cơ dạy trực tiếp cho các hành giả tại thế và điều kiện thọ pháp rất gắt gao ( trương chay, tuyệt dục, nhập môn, xin Thầy bang keo) nhưng cũng dễ dàng ( ai quyết chí cũng được Thầy Thượng Đế ban ơn)để giữ chân truyền, tránh thất truyền như hai lần PHổ Độ trước. 9. Các Pháp Môn được dạy cho mọi trình độ tiến hóa. Tùy theo cơ suyên mà thọ pháp hoặc tịnh tiến ( từ dễ và thấp đến cao) hoặc cơ giải thoát ( xin keo, được Thầy Thượng Đế cho keo thì hành cơ giải thoát khi qui liễu). 10. Giáo lý Đại Đạo là cơ tận độcho toàn nhân loại chớ không riêng cho dân tộc Việt nam. 11. Thánh giáo Đạo Cao Đài là lời dạy của chính Đức Thượng Đế, Đức Diêu Trì Kim Mạu, chư Phật, chư Giáo Tổ, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, chư vị liễu đạo đắc quả, chư vị Anh Hùng, chư Hiền, chư Chơn Nhơn... chớ không do một Tiên Tri mặc khải chấp bút viết ra hay do Đấng Giáo Chủ giảng cho đệ tử hay Tông Đồ viết lại sau khi chư vị nầy đắc đạo như hai thời kỳ Phổ Độ trước. 12. Giáo lý Đạo Cao Đài là những tóm lược hay sự cho học sinh ôn bài của chư vị Thầy để học sinh dự kỳ thi cuối khóa hay Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng ( chớ không phải giáo lý tổng hợp, góp nhặt, vay mượn từ các Tôn giáo khác có trước... như nhiều học giả Tây phương lầm tưởng mà đặt ra danh từ syncrétisme như các sách đã in). 13. Cách xưng hô của Đấng Giáo Chủ rất thân mật trong tình Cha con trong Đại Gia Đình Càn Khôn Vũ Trụ , tình Thầy trò trong Trường Đời trần gian trên quả cầu mang sồ 68 trong số 72 quả cầu. Đức Thượng Đế xưng là THẦY. Ngài không dùng danh từ của ngôn ngữ địa phương do loài người đặt ra mà gọi Ngài như trước ( Thí dụ như Giê-hô-va , Allah ...) mà Ngài mượn danh từ hay không tên hay vô danh mang ý nghĩa tượng trưng trong ngôn ngữ Việt Nam là CAO ĐÀI . 14. Giáo lý Đạo Cao Đài mang tính cách khoa học và hiện đại và là nền tảng cho các ngành khoa học trong tương lai. 15. Giáo lý Đạo Cao Đài duy trì Ngũ Giới Cấm trong Đạo Phật nhưng được chính Đức Thượng Đế giải thích rất rõ ràng nguyên do tại sao cấm, nhờ đó nhân loại hiểu rõ nguồn gốc của tội lỗi mà tránh vấp phải hoặc lần lần giảm tội lỗi, hoàn thiện hơn và là điều kiện để tu và hành pháp môn trong Đại Đạo. 16. Các danh từtrong Thánh Giáo Đạo Cao Đài là những từ căn bản, phong phú lấy từ chữ Hán Việt, chữ Nôm, chữ Pháp có dấu ngoặc và các Thánh giáo sau nầy trong Thánh Giáo Sưu tập được chư Thiên Liêng dùng rất khoa học, chính xác đúng theo trình độ tiến hoá của nhân loại trong giai đoạn khoa học kỹ thuật cao tột nầy ( Thí dụ như các danh từ do Đức Di Lạc Thiên Tôn gọi Ngọn đèn từ huệ và Ngài cho mở dấu ngoặc transistor hay Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy về thiền... hay Đức Thượng Đế dẫn thí vụ như kỹ sư....) Hà Phước Thảo |