NHỮNG NGÔI CHÙA MANG TÊN CÁC BÀ Ở HÀ NỘI
Ở Hà Nội có 6 ngôi chùa mang tên các bà: chùa Bà Ngô, chùa Bà nành, chùa Bà Đá, chùa Bà Già, chùa Bà Đanh, chùa Bà Móc.
1. Chùa Bà Ngô ở phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa, nay là số nhà 128. Tên chữ Há là "Ngọc Hồ tự". Tương chuyền chính ở chùa này vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đă gặp tiên, cùng tiên ngâm vịnh. Gọi là chùa Bà Ngô v́ có tích chuyện kể rằng chùa do một bà họ Ngô xây dựng nên, nhưng cũng có tích kể là người xây chùa là một bà có chồng là người nước Ngô (Trung Quốc. Chưa rơ tích nào đúng.
2. Chùa Bà Nành nay mang số nhà 154 phố Nguyễn Khuyến quận Đống Đa. Tương truyền vốn là nhà của một bà bán bánh, bán chè đậu nành. Bà là người phúc hậu, hay giúp đỡ người nghèo. Khi về già, bà đă bỏ tất cả tiền nong tích góp ra xây ngay trên đất nhà ḿnh một ngôi chùa và xuất gia tu hành. Sau khi bà mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng làm bàn bán hàng. Nay tượng và bàn đá đó vẫn c̣n. Dân làng gọi đó là chùa Bà Nành. Tên chữ là "Tiên Phúc tự".
3. Chùa Bà Đá, hiện nay ở số nhà 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm. Lịch sử chùa được kể như sau: đời Lê Thánh Tông (1460 - 1697) ở làng Báo Thiên (khu vực Nhà thờ Lớn ngày nay) có người đào được một pho tượng Phật Bà bằng đá. Người ấy bèn dựng một ngôi chùa nhỏ để thờ ngay tại nơi đào được tượng. Sau dân làng thấy linh thiêng mới góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ tŕ. V́ vậy chùa có tên là cùa Bà Đá tên chữ là "Linh Quang tự". Pho tượng đá đă bị mất trong vụ cháy chùa thời Pháp thuộc.
4. Chùa Bà Già ở làng Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Chùa có một lai lịch khá cổ. Nguyên Phú Gia, tên nôm là làng Gạ, là nơi các vua đời Trần định cư một bộ phận người Chăm được đưa từ phía Nam ra. Những người này dựng một ngôi chùa mà sử Toàn thư đă phiên âm là Đa-da-li. Thái uư Trần Nhật Duật (1254 - 1330) thường tới đây đàm đạo về Phật giáo với vị sư Chăm trụ tŕ tại chùa này. Có thể cái tên Bà Già là từ Đa-da-li mà ra. Nay trong chùa c̣n bức hoành phi cổ khắc ba chữ "Bà Già tự".
5. Chùa Bà Đanh cũng là một ngôi chùa dành cho người Chăm. Tây Hồ chí ghi là vua Lê Thánh Tông đă cho làm một thiền viện (vừa là chùa, vừa là một trung tâm nghiên cứu) ở g̣ Phượng Chuỷ bên bờ Nam Hồ Tây cho người Chăm hành đạo, gọi là thiền viện Châu Lâm. G̣ Phượng Chuỷ nay là khu vực trường Chu Văn An, quận Ba Đ́nh, nhưng dân th́ gọi là chùa Bà Đanh. Sau h́nh như người Chăm chuyển sang khu vực khác, thiền viện hoang phế nên có câu ngạn ngữ "Vắng như chùa Bà Đanh". Tới thời Pháp thuộc, thực dân bắt dời chùa đi để xây xưởng in rồi xây trường học. Đồ thờ ở chùa Châu Lâm được đưa sang thờ chung với chùa Phúc Châu ở chỗ nay là số nhà 199B phố Thuỵ Khuê, gọi gộp là chùa Phúc Lâm. Nhưng hiện nay trong chùa c̣n tấm bia ghi ḍng chữ "Châu Lâm tự hiệu là Bà Đanh tự". Có người nghiên cứu về địa phương này cho tên chùa là chùa Bà Đanh với suy luận rằng chùa vốn của người Chăm, tất có tượng các vũ nữ ở tư thế múa, tay dang, chân khuỳnh. Do vậy mà có tên Bà Banh, đọc trại thành Bà Đanh.
6. Chùa Bà Móc ở số nhà 27 phố Nguyễn Thiếp, quận Hoàn Kiếm. Không rơ lai lịch của chùa. Chùa cũng không c̣òn cổ vật, trừ tấm bia mang niên hiệu cảnh Thịnh thứ 4 (1796) do Nguyễn Cát Định làm đốc học ở Quốc Tử Giám soạn, nói về việc tu sửa chùa. Như vậy chùa cũng đă có trước đó ít ra là trăm năm./.
---o0o---
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường