Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Ngôn hạnh cao đẹp của mười ba vị Tổ Liên tông

25/04/201318:22(Xem: 3987)
18. Ngôn hạnh cao đẹp của mười ba vị Tổ Liên tông

Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam
Tập
85

Luận sử tông Tịnh độ

Việt dịch:Quảng Tấn - Quảng Ân - Quảng Bình

Quảng Hiếu - Huệ Hải - Quảng Xả

Quảng Mẫn - Tâm Đức - Huệ Chí - Tâm Đại

Hạnh Minh - Nhuận Độ - Nguyên Thành

Tâm Hiếu - Như Giáo - Nguyên An

Chứng Nghĩa:Thích Đổng Minh
Phụ chú:Thích Tâm Nhãn

Chùa Long Sơn, Nha Trang
Phật Lịch: 2548 - 2004

--- o0o ---
18.

NGÔN HẠNH CAO ĐẸP

CỦA MƯỜI BA VỊ TỔ LIÊN TÔNG.

Nguyên tác: Lương Vĩnh Khang

Việt dịch:Thích Nguyên An

I.LỜI NÓI ĐẦU

Thuở xưa, đức Thích Tôn nói kinh Vô lượng thọ tại núi Kì-xà-quật, nói kinh Quán vô lượng thọ tại thành Vương-xá và nói kinh A-di-đà tại vườn Kì Thọ Cấp-cô-độc, đều nhằm chỉ bày nhân quả của cõi Tịnh độ A-di-đà, nói rõ pháp môn Vãng sanh Tây phương. Nền tảng của Tịnh độ tông do đây được định hình.

Cõi Tịnh độ không có các khổ, hoàn toàn chỉ có sự an lạc, luôn chỉ dạy người xả bỏ tư tưởng nhơ uế, cầu sự thanh tịnh; muôn chim, cỏ hoa, ao hồ, vườn nhà đều bằng bảy báu an lạc; ở đây ai cũng vui thích chứng đạo xuất thế. Với lòng từ bi, trí tuệ thiện xảo, đức Phật chỉ dạy pháp môn trì danh hiệu Phật. Pháp môn ấy thật là vi diệu đặc biệt, công đức của nó không thể nghĩ bàn. Những lời giáo huấn quí báu này tuy bắt nguồn từ Ấn Độ, song rất thích hợp với hầu hết mọi căn cơ người dân Trung Hoa, nên nó đã thâm nhập một cách thịnh hành trong nhân gian. Mãi đến nay, những lời giáo huấn quí báu ấy vẫn xuôi về Đông độ, ngài Viễn Công khai sáng, các bậc thạc đức của Liên tông truyền thừa lớp lớp cho đến đại sư Ấn Quang, cả thảy là mười ba vị tổ, đều hoằng dương thịnh hành, người đời sau rất tôn sùng.

Nói tóm lại, mười ba vị Tổ Liên tông, mỗi ngài có mỗi công hạnh đặc biệt khác nhau, như ngài Huệ Viễn mở hội niệm Phật, khai sáng Liên tông. Ngài Thiện Đạo hành đạo Bát-chu, hộ trì phẩm giới. Ngài Thừa Viễn với thân hình ốm yếu, khuôn mặt dị kì. Năm hội niệm Phật của ngài Pháp Chiếu bay khắp muôn phương, giác tỉnh cung cấm. Ngài Thiểu Khang xin tiền cho lũ trẻ, tiếng niệm Phật vang khắp các nẻo đường. Pháp Thiền-Tịnh song tu của ngài Vĩnh Minh đề xướng, như hổ thêm sừng. Ngài Tỉnh Thường chích thân lấy máu chép kinh, thanh danh động cả đất trời. Ngài Liên Trì tụng kinh, mãnh hổ qui phục, niệm Phật mưa khắp đồng khô. Ngài Ngẫu Ích xem tạng, thông luật, trước thuật, làm cho tông môn một đời hưng long. Bằng thanh kiếm tuệ thiên trường, ngài Tiệt Lưu chém sạch ma phiền não. Ngài Tỉnh Am thấu triệt tánh tướng, làm văn Phát Bồ-đề tâm. Ngài Triệt Ngộ hoằng pháp ở Hồng Loa, tông phong cực thịnh. Ngài Ấn Quang lấy luân thường đạo lí làm gốc, không câu nệ hình thức.

Cả mười ba vị tổ, không vị nào là không kiện toàn trí đức. Các ngài đồng có chung một sở trường đặc biệt là khuyến khích tất cả các hạng căn cơ, nhất là hạng độn căn nên phát tâm nhàm chán cõi ngũ trược nhơ uế này, sanh tâm ưa thích Tịnh độ. Với sự hướng đạo của các ngài, khiến cho người trí biết được các nỗi khổ, theo pháp thoát li. Những lời nói tốt đẹp và hạnh đáng kính của các ngài, đến cả pháp sư còn phải trịnh trọng nương theo đó để toát yếu, ghi thành sách, tin nhận mà tự sách tấn mình.

1. ĐẠI SƯ HUỆ VIỄN - Tổ Liên tông thứ nhất-đời Tấn

Sư họ Giả, người Nhạn Môn, thuở nhỏ đã bát lãm Lục kinh và học thuyết Lão, Trang.

Năm mười một tuổi, nghe pháp sư Đạo An giảng kinh Bát-nhã, sư liễu ngộ mà xuất gia, lấy việc hoằng pháp lợi sanh làm nghĩa vụ trọng yếu.

Sau khi vào Lô Sơn, thấy phong cảnh đẹp đẽ nhàn tịch, sư bèn kết cỏ tranh làm nhà, giảng kinh Niết-bàn. Kính phục tài đức của sư, Quan Thứ sử Hoàn Y tâu lên vua, xin lập một ngôi Phật tự. Lòng chí thành của ông cảm đến long thiên, giông tố nổi lên, chuyển cây đến dựng chùa Đông Lâm, đào ao trồng sen, nên gọi là Liên xã. Sư tập hợp chúng, sáu thời niệm Phật cầu sanh Tây phương. Đây là sự khởi đầu hình thành Liên tông ở Trung Quốc.

Ở trên núi hơn ba mươi năm, tuy được vua triệu thỉnh nhưng sư cũng không xuống. Song, khi nghe ngài Cưu-ma-la-thập nhập Quan (Quan Trung), sư liền viết thư hỏi đạo, hai ngài thảo luận với nhau rất tâm đắc, đạo phong ngày càng cao viễn, người người đều hướng về. Lúc sư mới kết xã niệm Phật, có một trăm hai mươi ba vị tham gia, đều là những bậc long tượng và các nhà Nho. Sư sai Lưu Di Dân làm văn thệ nguyện khắc lên bia đá.

Vào cuối đời của Viễn Công, những người nhập Liên xã tu Tịnh nghiệp được vãng sanh rất nhiều. Từ đó, chùa Đông Lâm trở thành trung tâm Phật giáo phương Nam, vườn Tiêu Dao của ngài Cưu-ma-la-thập ở Trường An phương Bắc cũng vang lừng khắp nơi. Năm thứ mười hai niên hiệu Nghĩa Hi, ngài Viễn Công thấy Phật xuất hiện, liền đoan tọa nhập diệt, thọ tám mươi ba tuổi.

Sư nói: “Thế nào là niệm Phật tam-muội? Niệm Phật tam-muội là ý chuyên nhất, tưởng vắng lặng. Ý chuyên nhất thì tâm không tán loạn, tưởng vắng lặng thì thần sáng, khí nhẹ. Khí nhẹ thì thân tâm khinh an, thần sáng thì không gì không thấu triệt. Đây chính là diệu dụng tự nhiên của định-tuệ hợp nhất.”

Đối với chỗ chính yếu trong sự tu tập, sư dạy: “Người phụng hành pháp của bậc hiền Thánh, nên tư duy cho hợp với lẽ phải. Luôn nghĩ thời gian qua mau mà lo tích tụ các công đức, thường phải tẩy rửa thân tâm cho được thanh tịnh, ngày đêm chuyên cần, thậm chí quên cả ngủ nghỉ; có vậy công đức mới được viên dung, thông suốt ba thừa, vượt qua tất cả, có khả năng dẫn dắt kẻ yếu đuối tinh tấn tu tập, làm chỗ nương cho người đời sau.”

Trong Tri môn sùng hành lục nói: “Vào đời Tấn, Huệ Vĩnh và Viễn Công ở Lô sơn. Nhân (Tấn An Đế) tập trận qua Hổ Khê, Trấn nam tướng quân Hà Vô Kỵ giữ Tầm Dương thỉnh ngài Huệ Vĩnh và ngài Viễn Công (ra nghinh đón nhưng Huệ Viễn cáo bệnh). Số người nghinh đón ông ta có hơn trăm người, đứng trang nghiêm thứ tự”.

Lại chuyện, Tống Chu Hy1 đến chùa Đông Lâm, thấy hình tượng Viễn Công, nói với người cùng đi: “Ngài Viễn Công nếu không xuất gia, thì không làm quan lớn, ắc cũng làm tướng cướp.” (ý nói tướng quí ngài Huệ Viễn không làm được việc lớn cũng làm được việc nhỏ) (trích Châu tử ngữ lục).

Lại trong Cao tăng truyện nói: “Ngài Viễn Công thần sắc nghiêm dung, tiếng nói êm diệu, khuôn mặt vuông vắn, cương nghị, ai trông thấy cũng kính sợ.”

Một bậc cái thế như vậy, ai cũng kính phục, chẳng phải là người phàm thường, chắc chắn cuộc đời của ngài rất đặc biệt, thật xứng đáng để chúng ta noi theo.

2. ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO - Tổ Liên tông thứ hai-đời Đường

Sư người Lâm Truy, giữa niên hiệu Trinh Quán đời Đường, sư đến chùa Huyền Trung ở Tây Hà, yết kiến ngài Đạo Xước. Sau khi đến Đạo tràng Tịnh độ cửu phẩm, nghe giảng kinh Quán vô lượng thọ, sư tinh cần khổ hạnh, phát tâm niệm Phật. Sau đó đến Kinh đô, sư khuyến khích, sách tấn bốn chúng, thuyết pháp ở chùa Quang Minh, chép hơn mười vạn quyển kinh A-di-đaø, họa hơn ba trăm bức tranh Tây phương Thánh cảnh, cảm hóa vô số Tăng tục, người được tam-muội vãng sanh Tịnh độ rất nhiều. Mỗi một tiếng niệm Phật của sư đều có một luồng hào quang từ miệng phóng ra, nên thế gian tôn xưng là đại sư Quang Minh.

Một hôm, sư leo lên cây liễu, nhìn về phía Tây, thầm nguyện: Xin đức Phật tiếp dẫn con vãng sanh Tịnh độ, rồi thả mình mà tịch, thọ sáu mươi chín tuổi. Sư có trước tác Quán kinh sớ, Vãng sanh lễ tán…

Trong Di tông nói rằng: “Bậc Đại Thánh từ bi khuyên người chuyên niệm danh hiệu Phật, chính vì việc xưng danh hiệu dễ sanh niệm nhiếp tâm tương tục. Nếu ai có khả năng niệm niệm liên tục thì khi mạng chung mười người vãng sanh hết mười, trăm người vãng sanh hết trăm. Vì sao? Vì chánh niệm không tạp duyên, cùng tương ưng với bổn nguyện của Phật, làm theo lời Phật dạy, không làm trái với lời nguyện của mình. Nếu bỏ chuyên niệm mà theo tạp niệm thì trong trăm người may ra được một, hai người; trong ngàn người thì hy hữu lắm được ba, bốn người vãng sanh ở hạ phẩm.”

Lại trong Lâm thụy nhập quán lễ tưởng phát nguyện văn có ghi lời phát nguyện của sư như sau: “Đệ tử chúng con là kẻ phàm phu sanh tử, tội chướng sâu dầy, luân hồi sáu nẻo, khổ không thể nói, nay gặp bậc tri thức, được nghe danh hiệu và bổn nguyện của đức Phật A-di-đà, nhất tâm xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi tiếp độ, thương xót cứu vớt. Đệ tử chúng con chẳng biết tướng hảo quang minh của thân Phật, xin Ngài thị hiện cho chúng con được thấy, và xin được thấy đức Quan Âm, Thế Chí, các chúng Bồ-tát và tướng vi diệu quang minh trang nghiêm thanh tịnh trong thế giới này.”

Theo Long thư tịnh độ nói: “Mỗi khi vào Phật đường, sư chắp tay quỳ thẳng, nhất tâm niệm Phật, chưa kiệt sức thì không nghỉ, tuy trời rét lạnh nhưng áo sư vẫn ướt đẫm mồ hôi. Sư luôn hết lòng dạy pháp môn Tịnh độ cho đại chúng, không lúc nào mà không làm lợi ích cho chúng sanh. Hơn ba mươi năm, sư lưng không dính chiếu, hành đạo Bát-chu, lễ Phật mười phương, cho đây là nhiệm vụ của mình. Sư nghiêm trì tịnh giới, một lỗi nhỏ cũng không để phạm, mắt chưa từng liếc nhìn người nữ, dứt tuyệt danh lợi, tránh xa các nơi đàm luận hý tiếu. Được cúng dường y phục, vật thực hảo hạng, sư đều đem bố thí, cúng lại cho đại chúng, còn mình thì ăn đồ thô dở, giới hạnh của sư ai cũng ngưỡng mộ.”

Sư đã để lại bài kệ khuyến hóa như sau:

Già nua dần đến

Tóc bạc, da nhăn

Đi đứng khó khăn

Nói năng lẫm cẫm.

Dù tiền như núi

Vàng bạc đầy kho

Cũng khó thoát ra

Cửa già bệnh chết.

Kẻ ngu chẳng biết

Mặc ý hưởng lạc

Khi chết đến nơi

Lòng đầy lo sợ.

Người trí liễu ngộ

Nổ lực cần tu

Tỉnh niệm nhất tâm

A-di-đà Phật. 

Lời cảnh tỉnh của sư thật thâm thúy, như tiếng chuông ngân giữa đêm trường thanh vắng.

3. ĐẠI SƯ THỪA VIỄN - Tổ Liên tông thứ ba - đời Đường

Sư người Miên trúc, tỉnh Tứ Xuyên. Năm hai mươi bốn tuổi, sư đến núi Ngọc Tuyền ở Kinh Châu, xuống tóc học đạo với ngài Huệ Chơn. Vâng lời thầy dạy, sư đến Hành Sơn truyền giáo, số người được sư giáo hóa lên đến cả vạn. Sư chỉ dùng chuyên nhất pháp môn niệm Phật để khai đạo đồ chúng. Hôm ấy, nghe ngài Tuệ Nhựt đến Quảng Châu giáo hóa, sư liền đến cầu giáo. Ngài Tuệ Nhựt không dạy gì khác, chỉ khuyên sư nên y theo kinh Vô lượng thọ mà tu niệm Phật tam-muội để cứu độ quần sanh. Từ đấy, sư dứt hết các duyên, chuyên tu Tịnh độ.

Vào năm đầu niên hiệu Thiên Bảo, sư trở về núi Hành sơn, lập tinh xá lấy hiệu là Di-đà Đài, chỉ an trí kinh tượng. Sư ăn mặc thô sơ, tinh cần tu khổ hạnh, thường thấy Thánh cảnh, lấy việc chuyên trì danh hiệu làm hạnh chính yếu; lấy sự bố thí, trì giới làm hạnh phụ trợ.

Trong Tịnh nghiệp vựng biên nói: “Sư khắc quyển sách pháp môn chuyên niệm Phật vào vách khe suối, mà chẳng cần một sự giúp đỡ chi viện nào, không cầu mà vẫn đủ, không xin mà vẫn thừa. Tất cả các vật sở hữu của sư, sư đều đem bố thí cho những người nghèo thiếu, bệnh tật; còn mình thì ở dưới hang đá, ăn bùn đất cây cỏ, nên thân hình gầy yếu, má hóp xám sanh tợ như người tiều phu nghèo đốn củi. Thanh danh sư vang lừng khắp nơi, Thiên tử có ý thỉnh cầu sư, song không thể được. Có thể nói, sư là một bậc mô phạm nghiêm minh.”

Bậc cổ đức hành khổ hạnh, thật xứng đáng làm khuôn mẫu cho đời. Vào năm thứ mười tám niên hiệu Trinh Nguyên, Sư viên tịch, thọ chín mươi mốt tuổi.

Trong Tri môn sùng hành lục tán thán: “Đánh cỏ tranh làm nhà, vua Nghiêu còn ngại thôn xóm gièm pha; mặc y phục thô rách, vua Vũ còn sợ dân dã chê cười; huống nữa Thích tử, kẻ chỉ dùng y bát để nuôi dưỡng thân. Vậy mà thời nay, có lắm người sống đời xa xỉ, chỉ lo tích chứa, trau chuốt thân thể, e rằng người như vậy chẳng tự biết, lại còn dương dương tự đắc, chẳng có tàm quí.” Thành thật mà nói như vậy!

4. ĐẠI SƯ PHÁP CHIẾU - Tổ Liên tông thứ tư - đời Đường

Sư ở chù Vân Phong huyện Hàønh Châu, là Quốc sư của triều Đường Đại Tông. Tông chỉ sở hành của sư là từ bi, nhẫn nhục, trì giới, thiền định. Sư từng thấy Thánh cảnh Ngũ đài hiện trong bát mình. Sau đó, sư đến Ngũ Đài Sơn, diện kiến đức Văn Thù. Tại Lô Sơn, trong lúc nhập định, sư được nghe pháp môn niệm Phật, thần thức dạo nơi cảnh Cực lạc, thấy ngài Thừa Viễn đứng hầu bên cạnh đức Phật A-di-đà.

Giữa năm Vĩnh Thái, Sư đến Hành sơn, hầu ngài Thừa Viễn, thọ pháp môn Tịnh độ.

Theo trong sách “Tịnh độ ngũ hội niệm phật tụng kinh quán hạnh nghi” do sư trước tác, nói: “Ngày mười lăm tháng tư năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Thái, tại Di-đà Đài huyện Nam Nhạc, sư phát nguyện rộng lớn, thệ trọn đời này, cứ chín mươi ngày trong mỗi mùa Hạ, là nhập đạo tràng niệm Phật tam-muội. Mùa Hạ năm ấy, đến ngày thứ hai mươi bảy, sư thấy Phật, được đức Phật A-di-đà chỉ dẫn cho pháp Ngũ hội niệm Phật.”

Từ đó về sau, sư từng ở chùa Hồ Đông mở Ngũ hội niệm Phật, có vầng mây lành năm màu che trên gác báu, thấy đức Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát, thân tướng trùm khắp hư không. Lại ở Tinh Châu, sư mở Ngũ hội niệm Phật, âm thanh niệm Phật vang đến trong cung Đại Tông (Lý Dự), vua bèn hạ lệnh cho quan quân truy tầm, thỉnh sư về cung. Sư dạy người trong cung niệm Phật, cũng do mở Ngũ hội niệm Phật mà sư được vua ban hiệu Quốc sư, người đương thời gọi sư là Pháp sư Ngũ Hội.

Sư dựa vào kinh Vô lượng thọ nói cây báu ở cõi Tịnh phát ra năm loại âm thanh đều niệm danh hiệu Tam bảo, nói người nghe pháp được Nhẫn bất thối cho đếùn khi thành Phật đạo … mà sáng lập ra pháp môn này. Pháp Ngũ hội niệm Phật của sư truyền lại cho đời như sau: Hội thứ nhất, niệm chậm, thong thả với âm thanh trung bình. Hội thứ hai, niệm thong thả nhưng với âm thanh cao. Hội thứ ba, niệm không nhanh nhưng cũng chẳng chậm. Hội thứ tư, niệm nhanh dần. Bốn hội trên đều xướng niệm sáu chữ Nam Mô A-di-đà Phật. Hội thứ năm, luôn niệm nhanh bốn chữ A-di-đà Phật. Trong ấy lại có kệ tán thán:

Hội thứ nhất tiếng bình thanh hoà nhập

Hội thứ hai diễn thanh âm vi diệu

Hội thứ ba như tấu nhạc bổng trầm

Hội tư dụng lực ca ngâm chính yếu

Hội năm niệm niệm âm thanh nhanh dần.

Nghe năm hội này ngộ Vô sanh nhẫn

Thắng cảnh Tây phương hưởng thọ lạc an

Thoát vòng sanh tử trầm luân khổ sầu …

Bài kệ tán dương này được kinh ấn chứng, Tổ giám định, nhưng vì có người nghi là ngụy tạo, nên ghi ra đây để tham khảo. 

5. ĐẠI SƯ THIỂU KHANG - Tổ Liên tông thứ năm - đời Đường

Sư người Tấn Vân, họ Châu. Năm mười lăm tuổi, sư tụng các kinh Pháp hoa, Lăng nghiêm … Sau đến Việt Địa, sư tham cứu Tỳ-ni, Hoa nghiêm và luận Du-già

Đầu năm Trinh Nguyên, sư đến chùa Bạch Mã, nhìn thấy tập văn Tây phương hóa đạo của ngài Thiện Đạo, sư vô cùng vui mừng. Nhân đó, sư đến Trường An, chiêm lễ di ảnh ngài Thiện Đạo, nhờ sự cảm ứng nên thấy được chơn thân của Ngài.

Sau khi đến huyện Mục, ở trong thành, sư khất thực được rất nhiều tiền, song dụ trẻ con niệm Phật rồi cho tiền, không ngờ tiếng niệm Phật vang khắp các nẻo đường. Biết nhân duyên hoá độ đã chín, sư đến núi Ô Long kiến lập đạo tràng Tịnh độ, xây đàn tràng ba tầng, ngày đêm đại chúng tinh tấn tu hành xướng niệm. Vào những ngày trai, số người qui tụ về hơn cả ba ngàn. Khi sư xướng niệm một tiếng A-di-đà Phật thì từ trong miệng phóng ra một đức Phật, niệm mười tiếng thì mười đức Phật liên tiếp hiện ra như tràng hạt châu, đại chúng ai cũng thấy.

Hành nghiệp chính yếu của sư là luôn nhớ nghĩ nhàm chán cõi ngũ trược nhơ uế, vui thích Tịnh độ, niệm Phật lớn tiếng và hành bố thí. Sư thường dạy chúng: “Phải luôn khởi tâm vui thích cõi Tịnh, nhàm chán xa lìa cõi Ta bà năm trược.”

Vào năm Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt, sư viên tịch, toàn thân phóng quang rực sáng. Đại chúng xây tháp sư ở Đài Nham, nên người đương thời gọi ngài là Pháp Sư Đài Nham.

Ngài xin tiền cho trẻ con niệm Phật, âm thanh niệm Phật vang khắp các nẻo đường, đó là việc làm của một bậc khổ hạnh tối cao vậy. 

6. ĐẠI SƯ VĨNH MINH - Tổ Liên tông thứ sáu - đời Tống

Sư người Tiền Đường, họ Vương, hiệu Diên Thọ, tự Sung Huyền. Vào thời Ngũ Đại, sư làm quan giữ kho, lấy tiền của quan quân mua chim cá phóng sanh, nên bị xét xử tử hình. Sắp đến giờ hành hình mà thần sắc của sư vẫn không biến đổi. Trước tinh thần vô uý của sư, Ngô Việt Vương rất cảm phục nên phóng thích.

Sau đó sư xuất gia, nương thiền sư Thuý Nham tu học, kế đến tham chiếu với Thiền Quốc sư. Sư từng tinh cần miên mật hành Pháp hoa sám hai mươi mốt ngày, mộng thấy đức Bồ-tát Quán Thế Âm dùng cam lồ rưới vào miệng, liền được biện tài vô ngại. Sư đã trước tác Tông cảnh lục, Vạn thiện đồng qui tập … đều nói về tông chỉ Tịnh độ.

Năm Kiến Long thứ hai, đời nhà Tống, vua Trung Ý thỉnh sư trụ trì chùa Vĩnh Minh. Sư lập thời khoá công phu thật miên mật, ban ngày làm trăm lẻ tám việc, tối đến lên một ngọn núi gần chùa niệm Phật, tiếng niệm Phật hoà cùng với tiếng nhạc trời trổi trên hư không lúc trầm lúc bỗng, mọi người ở đây ai cũng cảm phục. Sư ở chùa Vĩnh Minh mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm đệ tử xuất gia. Vào Thiên Đài, sư truyền giới cho hơn vạn người, thường cùng bảy chúng thọ Bồ-tát giới, chiều tối thí thực cho các loài quỉ thần, và thường mua chim, cá … phóng sanh. Sư hành đạo cả sáu thời, trọn đời đã tụng một vạn ba ngàn bộ kinh Pháp hoa.

Niên hiệu Khai Bảo thứ tám, hôm ấy trời mát diệu, sư đốt hương cúng dường Tam bảo, dạy đại chúng xong, ngồi kiết già viên tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.

Cho đến nay, tư tưởng chủ đạo Thiền Tịnh song tu của sư vẫn được mọi người cung kính hành trì. Như trong Thiền tịnh tứ liệu giản nói:

Có Thiền, không Tịnh độ

Mười người, chín người lạc

Khi âm cảnh hiện ra

Liền phải đi theo nó.

Không Thiền, có Tịnh độ

Vạn người tu đồmg thành

Thấy được đức Di-đà

Lo gì không khai ngộ.

Có Thiền, có Tịnh độ

Giống như hổ thêm sừng

Hiện tại làm thầy người

Tương lai làm Phật, Tổ.

Không Thiền, không Tịnh độ

Đời đời nằm giường sắt

Kiếp kiếp ôm trụ đồng

Chẳng có nơi nương tựa.

Ngày nay, đọc lại bài kệ này, chúng ta có thể tưởng tượng được biện tài vô ngại của sư thuyết pháp, cảnh tỉnh bốn chúng thời ấy.

Lại trong Tứ liệu giản nói: “Xét hai đường luân hồi thiện ác, quả báo khổ vui đều do ba nghiệp gây tạo, bốn duyên sanh ra, sáu nhân thành hình, năm quả thu nhiếp. Nếu khởi một niệm sân hận, tà dâm thì đó là nghiệp địa ngục. Nếu khởi một niệm tham lam không thí xả thì đó là nghiệp ngạ quỉ. Nếu khởi một niệm ngu si ám chướng thì đó là nghiệp súc sanh. Nếu khởi một niệm cống cao ngã mạn thì đó là nghiệp A-tu-la. Nếu thọ trì năm giới thì đó là nghiệp làm người. Nếu chuyên tu mười điều thiện thì đó là nghiệp làm trời. Nếu chứng ngộ Nhân không thì đó là nghiệp Thanh Văn. Nếu thấu triệt lí duyên sanh thì đó là nghiệp Duyên Giác. Nếu chuyên tu sáu độ thì đó là nghiệp Bồ-tát. Nếu hành từ tâm bình đẳng thì đó là nghiệp của Phật. Nếu tâm an tĩnh thì hóa sanh cõi tịnh, ở lầu đài cung điện bảy báu, ngồi toà sen hương thơm ngào ngạt. Nếu tâm nhơ nhiễm thì sanh vào cõi cấu uế, hầm hố gò đồi. Tất cả những kết quả này đều biến chuyển theo nguyên lí duyên sanh tự nhiên bình đẳng. Chính vì ngoài nguồn tự tâm ra, không có một thể nào khác, nên muốn được quả an tịnh thì chỉ có cách tạo nhân thanh tịnh.”

Sư giảng nói lưu loát, kiến giải tinh thâm tột đỉnh, những tác phẩm của sư có giá trị bất hủ, đúng là một bậc học Phật trí đức viên dung, tài hoa trước thuật. 

7. ĐẠI SƯ TỈNH THƯỜNG - Tổ Liên tông thứ bảy - đời Tống

Vào đời Tống, tín ngưỡng Tịnh độ đã ăn sâu trong nhân gian, đặc biệt rất thịnh hành ở vùng Chiết Giang phương nam. Người đầu tiên sáng lập hội niệm Phật ở đây là đại sư Tỉnh Thường. Sư họ Nhan, người Tiền Đường.

Vào giữa niên hiệu Thuần Hoá, sư trụ trì viện Chiêu Khánh ở Tây hồ, khắc tượng Phật A-di-đà bằng gỗ chiên đàn, chích thân láy máu chép phẩm Tịnh hạnh trong kinh Hoa nghiêm. Vì ngưỡng mộ đạo phong của ngài Viễn Công ở Lô sơn, nên sư kết xã Tịnh Hạnh chuyên tu Tịnh nghiệp. Các hàng sĩ phu tham gia hơn một trăm hai mươi người, như tướng quốc Vương Văn Chánh Công Đán … tự xưng là đệ tử của xã Tịnh Hạnh, cùng với một ngàn vị Tăng đồng tu niệm. Sư lại điêu khắc tượng Phật Tì-lô-giá-na bằng gỗ chiên đàn hương. Sau khi điêu khắc xong, sư quì trước tượng phát nguyện: “Kể từ ngày nay, con và đại chúng phát Bồ-đề tâm, nguyện đời đời kiếp kiếp hành Bồ-tát đạo, nguyện khi xả báo thân này liền sanh về cõi An dưỡng.” Với đại nguyện kiên định, giới hạnh nghiêm minh, thanh danh của sư cảm động cả đất trời, từ cung đình cho đến làng mạc, nhiều vị Đại đức, quan quân, thân sĩ quí tộc tìm đếùn kết giao học đạo, người đương thời không ai không biết sư. Sư trì giới luật tinh nghiêm, chuyên niệm danh hiệu Phật, phát Bồ-đề tâm, kết xã niệm Phật, động viên khích lệ mọi người tu tập, nổi tiếng bốn phương nhưng ít trước thuật.

Trong sách Phật cư sĩ, Tổ sư Ấn Quang đã giảng giải cho chúng ta hiểu một cách đúng đắn rằng: “Việc trước tác là tuỳ theo tâm nguyện của mỗi người, chúng ta nhất định không thể đánh giá phẩm chất đạo đức tốt xấu của người ấy qua việc họ trước tác được nhiều hay ít. Xưa nay, các bậc hiển bày Pháp thân ít dùng ngôn từ câu cú, không có trước tác. Lẽ nào chúng ta lại nghi ngờ được sao? Chúng ta biết rằng muốn thoát li sanh tử, thật ra chẳng phải ở chỗ nói nhiều, mà chỉ cần một mực thâm tín, nguyện tha thiết, chí thành niệm Phật cầu sanh Tây phương là đủ. Song, cho dù đọc hết Đại tạng kinh đi nữa thì chẳng qua cũng chỉ để hoàn thành việc giải thoát mà thôi.” Nói đầy đủ là để phá sự mê hoặc.

Vào thánh giêng năm thứ tư niên hiệu Thiên Hỷ, sư thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. 

8. ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ - Tổ Liên tông thứ tám - đời Minh

Sư họ Trầm huý Châu Hoành, hiệu Liên Trì, người quận Nhân Hoà thuộc tỉnh Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi, sư làm giáo thọ dạy cho các thư sinh trong vùng.

Đang độ tuổi thanh xuân cường tráng, sư thế phát xuất gia với Hòa thượng Tánh Thiên. Sau khi thọ giới Cụ túc, Sư đi tham kiến thiện tri thức ở khắp nơi. Tại huyện Đông Xương, đang trên đường đi tham kiến, nghe tiếng trống phát ra từ một lầu củi (Tiều lâu)2, sư hốt nhiên đại ngộ, liền làm bài kệ:

Việc đáng nghi ba mươi năm trước

Ngoài ba ngàn dặm gặp gì lạ

Đốt hương, ném kích đều hư rỗng

Tranh suông ma Phật, đúng với sai.

Khi sư lễ Ngũ Đài Sơn, thì cảm ứng ngài Văn Thù phóng quang. Niên hiệu Long Khánh thứ năm, sư chọn núi Vân thê ở Hàng Châu, chuyên tu niệm Phật tam-muội, giáo hoá kẻ xa người gần, Tăng tục vân tập tạo thành một Tòng lâm lớn. Quanh vùng núi này hổ lang hung dữ, sư tụng kinh, thí thực cho muôn loài, trừ được hoạn cầm thú phá hoại cho dân. Vào những năm đại hạn mất mùa, sư đi dọc bờ ruộng niệm Phật, bước đến đâu mưa rơi đến đó.

Năm Vạn Lịch thứ mười hai, sư biên soạn tập sách Vãng sanh, ghi lại sự tích những người vãng sanh từ xưa đến nay. Hai mươi năm ở chùa Tịnh Từ thuộc tỉnh Hàng Châu, sư khai pháp, mở giới đàn truyền giới cho Tăng tục, đào ao phóng sanh, chế văn giới sát sanh, đến nay vẫn còn lưu truyền. Sư dùng pháp môn niệm Phật nhiếp hóa tất cả các căn cơ, trước tác Vân thê pháp lục … hơn hai mươi loại, đề xướng Tịnh độ. Người tắm trong đức giáo hoá của sư rất nhiều, tạo thành một hồ tư tưởng rộng lớn.

Trong số cư sĩ đệ tử của sư, có những vị như Diêu Quảng Hiếu, Lí Trác Ngô, Viễn Hoành Đạo, Tráng Quảng Hoàn …. đều trước tác các loại sách cổ suý Tịnh độ. Nên sau niên hiệu Vạn Lịch, tín ngưỡng Tịnh độ phát triển cực thịnh, đến nay vẫn còn hưng long.

Niên hiệu Vạn Lịch thứ bốn mươi, trước khi sư viên tịch, đại chúng thỉnh sư lưu lại vài lời vàng ngọc cuối cùng, sư nói: “Phải thật tâm niệm Phật”, rồi quay về hướng Tây xưng danh hiệu Phật mà tịch, thọ 81 tuổi.

Dưới đây chỉ ghi lại vài lời pháp ngữ tu trì tịnh nghiệp của sư:

“Xét người học Phật, không cần phải hình thức trang nghiêm, mà chỉ quí ở chỗ tu hành chơn chất. Người cư sĩ tại gia niệm Phật, không nhất định phải mặc y phục như tu sĩ, mà chỉ cần búi tóc gọn gàn, mặc thường phục là được. Người niệm Phật không nhất định phải gõ mỏ hay đánh trống, nếu ưa thích sự tĩnh lặng thì có thể tự niệm Phật trong sự yên tịnh. Người niệm Phật không nhất định phải tạo thành hội đoàn đông đảo, nếu e ngại việc ấy thì có thể tự đóng cửa niệm Phật. Người niệm Phật không nhất thiết phải vào chùa nghe kinh, nếu biết chữ thì có thể tự y theo giáo pháp mà niệm Phật. Người ngàn năm đốt hương cúng Phật, không bằng người ngồi an tịnh trong nhà niệm Phật. Người cung phụng tà sư không bằng người hiếu dưỡng cha mẹ mà niệm Phật. Người kết giao bè bạn ác không bằng người ở một mình nơi thanh tịnh niệm Phật. Người gởi tiền ngân hàng để lo cho cuộc sống tương lai, không bằng người hiện tại làm phước, niệm Phật. Người ôm giữ trong lòng những tâm nguyện nhơ bẩn, không bằng người sám hối, niệm phật. Người học tập thơ văn ngoại đạo, chẳng bằng người không biết một chữ mà niệm Phật. Kẻ vô tri vọng luận thiền lí, chẳng bằng người hết lòng trì giới, niệm Phật. Kẻ mong cầu thần thông yêu quỉ, chẳng bằng người chánh tín nhân quả mà niệm Phật.

Nói tóm lại, người niệm Phật với tâm ngay thẳng, không làm các điều ác, đó gọi là người thiện. Nhiếp tâm trừ tán loạn, người niệm Phật như vậy gọi là người hiền. Giác ngộ bổn tâm, đoạn trừ mê hoặc, người niệm Phật như vậy gọi là bậc Thánh.

Trì danh niệm Phật có nhiều cách: trì mặc niệm, trì lớn tiếng, trì kim cang … . Nhưng trì niệm lớn tiếng thì e tổn khí lực, trì mặc niệm thì dễ bị hôn trầm, chỉ có niệm thầm thầm mặc mặc, tiếng phát ra giữa răng và lưỡi đó gọi là trì kim cang. Cũng không nhất định là phải trì theo lối kim cang, nếu ngại tổn khí lực thì cứ trì mặc niệm, nếu sợ hôn trầm quấy nhiễu thì cứ niệm lớn tiếng.

Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc hay chơn chánh chửa sạch tạp niệm, mà không có thuốc nào có thể trị hết. Nhờ niệm Phật nên không gần gũi bạn ác. Khi tạp niệm khởi liền dụng tâm gia công niệm, từng câu từng chữ rõ ràng, tạp niệm tự dứt trừ vậy!”

Những điều khai thị trên đây của sư thật thích hợp cho mọi hạng người, nhất là đối với người luôn bận rộn trăm công ngàn việc. Vì chúng sanh mà sư khai mở con đường học Phật bằng phẳng, tu đạo chơn chánh, không chú trọng hình thức, chỉ quí sự tu hành chơn chất. Có thể nói tư tưởng này cùng với tư tưởng của Tổ sư Ấn Quang thời cận đại là đồng cảm tương truyền, cũng là chỗ vui mừng của chúng sanh. 

9. ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH - Tổ Liên tông thứ chín - đời Minh

Sư họ Chung, người huyện Ngô, hiệu Trí Húc. Thuở nhỏ, sư chuyên học Nho, thề triệt tiêu Phật, Lão, nên làm mười bộ luận nhằm công kích Phật, Lão.

Về sau, nhân đọc tập Trúc song tuỳ bút Tự tri lục của ngài Châu Hoành, sư liền tỉnh ngộ, đốt hết các bộ luận mà mình trước tác bài xích Phật giáo.

Năm hai mươi bốn tuổi, sư xuất gia, nghe ngài Cổ Đức giảng luận Duy thức tại chùa Vân Thê, sau đó lên núi tọa thiền.

Năm hai mươi sáu tuổi, sư thọ Bồ-tát giới và biên duyệt Tạng luật.

Năm hai mươi tám tuổi, sư nhiễm bệnh, quyết chí cầu sanh Tịnh độ, lấy Thiên thai làm tông.

Năm Sùng Trinh thứ tư, sư đi du hoá khắp nơi hoằng truyền Tịnh nghiệp, sau nằm dưỡng bệnh tại núi Linh Phong. Tại đây, sư trước tác bài văn phát nguyện và kệ cầu sanh Tịnh độ. Sang năm sau, sư thị tịch, thọ năm mươi bảy tuổi.

Sanh bình, sư lấy việc xem kinh tạng, trước thuật làm sự nghiệp, đã để lại cho đời những tác phẩm nổi tiếng như: Kinh A-di-đà yếu giải 1 quyển, Duyệt tạng tri luật 44 quyển, Bồ-tát giới bổn tiên yếu 1 quyển, Pháp hoa kinh huyền nghĩa tiết yếu 2 quyển. Ngoài ra, sư còn phát huy, trước tác hơn mười bộ kinh luận, dùng văn tự Bát-nhã làm công cụ độ người, như nước trăm sông đổ về biển cả. Bút pháp của sư trang nhã sâu sắc, đúng là một bậc tài đức vẹn toàn.

Sáu pháp Ba-la-mật là con đường mà người con Phật phải đi qua, được sư khai thị như sau:

- Chơn thật niệm Phật, buông xả thân tâm thế giới, tức là đại bố thí.

- Chơn thật niệm Phật, không sanh khởi tham sân si, tức là đại trì giới.

- Chơn thật niệm Phật, không chấp nhơn ngã thị phi, tức là đại nhẫn nhục.

- Chơn thật niệm Phật, liên tục không để gián đoạn, tức là đại tinh tấn.

- Chơn thật niệm Phật, không tán loạn vọng tưởng, tức là đại thiền định.

- Chơn thật niệm Phật, rõ biết, không bị các duyên làm mê hoặc, tức là đại trí tuệ.

Chúng ta thử tự kiểm điểm, nếu đối với thế giới thân tâm mà chưa buông xả, niệm tham sân si còn hiện khởi, tâm còn đeo mang nhân ngã thị phi, vọng tưởng lăng xăng chưa trừ diệt, tâm chí mê hoặc rẽ theo pháp khác thì không thể gọi là người chơn thật niệm Phật.

Sư lại dạy: Người tín nguyện trì danh, nếu nghiệp chướng tiêu trừ, mang nghiệp vãng sanh thì liền sanh cõi Phàm thánh đồng cư tịnh độ. Người tín nguyện trì danh, nếu đoạn tận kiến hoặc, tư hoặc mà vãng sanh thì liền sanh cõi Phương tiện hữu dư tịnh độ. Người tín nguyện trì danh, nếu phá trừ một phần vô minh mà vãng sanh thì liền sanh cõi Thật báo trang nghiêm tịnh độ. Người tín nguyện trì danh, nếu trì đến chỗ cứu cánh, đoạn tận vô minh mà vãng sanh thì liền sanh cõi Thường tịch quang tịnh độ. Cho nên trì danh niệm Phật có khả năng sanh lên bốn cõi, thật chính xác không sai.

Ngài lại dạy: Pháp môn Tịnh độ không có gì kì lạ, chủ yếu chỉ là tin sâu, nguyện tha thiết và nổ lực hành trì. Chỉ e rằng, người mới có được chút ít niềm tin cao quí và sự an ổn, rồi thủ đắc mà buông bỏ niệm. Nếu ngày đêm quyết định lấy mười vạn, hoặïc ba vạn hay năm vạn niệm làm tiêu chuẩn, niệm không thiếu, thề nguyện suốt đời không thay đổi mà khi lâm chung không được vãng sanh thì ba đời chư Phật thành vọng ngữ. Một khi đã vãng sanh thì vĩnh viễn không thối chuyển, thấu rõ được tất cả các pháp. Phải tránh lối tu theo kiểu hôm nay Trương tam, ngày mai Lí tứ (người tu lúc này lúc nọ) …. Tu hành như thế làm sao biết được trì danh hiêïu A-di-đà Phật đến chỗ cứu cánh thì ba tạng, mười hai bộ loại kinh, tất cả giáo lí đều ở trong này. Một ngàn bảy trăm công án thiền cũng nằm trong này. Ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tụ tịnh giới cũng ở trong đây.

Sự giải thích cụ thể, rõ ràng của sư không những đủ làm cho mắt tâm của chúng sanh thông suốt, mà còn mặc nhiên khế với tâm Phật.

10. ĐẠI SƯ TIỆT LƯU - Tổ Liên tông thứ mười - đời Thanh

Sư họ Tưởng, huý Hành Sách, người ở đất Nghi Hưng. Cha sư là một nhà Nho uyên bác. Hôm sư chào đời, cha sư mộng thấy ngài Hám Sơn vào nhà.

Sau khi cha mẹ qua đời, năm hai mươi ba tuổi, sư thế phát xuất gia, trọn đời lưng không dính chiếu, chuyên tu Tịnh nghiệp, thường ở Hàng Châu xiển dương Liên tông, pháp duyên hưng thịnh thù thắng.

Năm Khang Hy thứ hai, sư cất am ở núi Pháp Hoa bên bờ sông Tây Khê, Hàng Châu. Suốt chín năm trụ ở chùa Phổ Nhân trên núi Lô Sơn, sư hết lòng truyền giáo, phát triển Liên xã.

Năm Khang hy thứ hai mươi mốt, sư thị tịch, thọ năm mươi hai tuổi, đã để lại cho đời một số tác phẩm quí giá như: Liên tạng tập, Tịnh độ pháp ngữ ….

Trong tập Pháp ngữ này, sư đã dạy: Ngày nay, những người tu học Tịnh nghiệp, suốt ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện mà Tây phương đối với họ vẫn còn xa, không bảo đảm là mình được vãng sanh. Vì sao? Vì gốc ái chưa nhổ, còn bị dây tình buộc ràng. Nếu xem sự ái ân của thế giới Ta bà này đồng như nhai sáp, thì dù trong lúc bận rộn hay rãnh rang, động hay tịnh, khổ hay vui …. đều nương vào câu Phật hiệu vững như núi Tu-di, tất cả cảnh duyên không thể làm lay động; hoặc khi cảm thấy mệt mỏi biến nhác, tập khí hiện khởi, liền dùng kiếm tuệ thiên trường chém đứt ngay trong một niệm, khiến cho tất cả quân ma phiền não tan tác trốn chạy, không còn chỗ dung thân, như ngọn lửa dữ thiêu sạch hết thảy tình thức vô thỉ, thì người như vậy, tuy ở trong cõi ác năm trược, nhưng đã vận thân ngồi trong đài Liên Hoa của cõi Tịnh độ, đâu cần phải đợi Phật A-di-đà đưa tay, Quan Âm dẫn dắt mới tin là mình vãng sanh?

11. ĐẠI SƯ TỈNH AM - Tổ Liên tông thứ mười một - đời Thanh

Sư họ Thời, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, người ở đất Thường Thục. Ngay từ thuở nhỏ, sư đã không ăn cá thịt. Sau khi xuất gia, Thiền, Giáo, Tánh, Tướng, pháp nào sư cũng thông suốt. Tại chùa Chơn Tịch, sư đóng thất ba năm, ban ngày xem kinh tạng, tối đến trì danh hiệu Phật.

Sau khi ra thất, sư đến Tứ Minh đãnh lễ tháp A-dục vương, do lòng thành (đốt ngón tay cúng dường) nên cảm ứng xá-lợi phóng quang. Nhân đó, sư soạn Niết-bàn sám Phát Bồ-đề tâm văn. Ai tụng bài văn này cũng đều rơi lệ. Sư từng đốt ngón tay, phát bốn mươi tám lời nguyện trước tượng phật. Về cuối đời, sư ở chùa Phạm Thiên, phát động thành lập Liên xã, chuyên tu tịnh nghiệp.

Mùa Đông, năm Ung Chính thứ mười một, sư bảo với chúng đệ tử: “Tháng tư năm sau, ta sẽ đi xa”.

Biết nhân duyên của mình ở thế giới Ta bà sắp mãn, sư đóng thất ngày đêm niệm Phật mười vạn biến. Sáng ngày 13 tháng 4 năm Ung Chính thứ mười hai, sư viên tịch trong lúc ngồi niệm Phật, hưởng dương bốn mươi chín tuổi.

Huấn thị chính yếu của sư là bản văn Phát Bồ-đề tâm, với lời dạy rất chí thiết: “Niệm Phật mà không phát đại tâm Bồ-đề thì không tương ưng với đại nguyện của đức A-di-đà, do đó rốt cùng không thể vãng sanh. Nhưng nếu phát tâm Bồ-đề mà không chuyên tâm niệm Phật thì cũng không thể vãng sanh. Do vậy, lấy việc phát tâm Bồ-đề làm chánh nhân, niệm Phật làm trợ duyên thì sau này mới có thể vãng sanh. Người tu Tịnh nghiệp không thể không biết điều này”. Ngài lại dạy: “Người niệm Phật phải nên tinh cần chuyên tâm”.

Như sách của cư sĩ Mâu Mao Tĩnh Viễn nói: “Cư sĩ tham công án thấu suốt đã lâu, tu tâp tịnh nghiệp Tây phương cũng đã lâu, nhưng sao tâm sanh tử chẳng dứt, gia duyên chẳng lìa, nhân tình chẳng vơi, niệm Phật tâm chẳng chuyên, phải chăng do căn chẳng đoạn, niệm ái buộc ràng chăng?”

Hai điều này cần phải thẩm xét lại. Nếu chẳng quyết dứt sạch gia duyên thế sự, thì dù có niệm vô lượng sáu chữ hồng danh, muốn thoát khỏi cõi Ta bà, sanh miền An dưỡng cũng thật là khó. Không sanh An dưỡng mà muốn thoát khỏi sanh tử, không mong thoát khỏi sanh tử mà muốn chẳng đọa ác đạo thì lại còn khó hơn; dù cho có giữ được thân người trong một đời hay hai đời thì có được ích gì!

Than ôi! Tuệ tâm của cư sĩ lanh lợi như vậy, gia duyên tốt đẹp như vậy, con cháu hiền tài như vậy, mọi sự đều thích ý, vậy mà còn không thể buông bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, là trời phụ người chăng? Hay người phụ trời chăng? Người tại gia học Phật đầy đủ duyên lành như vậy, là nhờ giữ được chút ít giới, nhưng vì tâm còn biếng lười, không tinh tấn chuyên niệm thì làm sao có được kết quả như ý. 

12. ĐẠI SƯ TRIỆT NGỘ - Tổ Liên tông thứ mười hai - đời Thanh

Sư họ Mã, tự Triệt Ngộ, hiệu Mộng Đông, người huyện Phong Nhuận. Thuở thiếu thời, sư đã thông thuộc kinh sử. Nhân nhờ trọng bệnh, sư liễu ngộ huyễn chất vô thường, nên phát nguyện xuất gia.

Sau khi bệnh thuyên giảm, sư đến huyện Phòng Sơn xin thế phát với lão túc Vinh Trì ở am Tam Thánh. Sư liễu đạt thông suốt tất cả Thiền, Giáo, hai tông Tánh, Tướng, yếu chỉ mười thừa, tam quán. Sau đó, sư trụ trì chùa Vạn Thọ ở Bắc Kinh, hướng dẫn chúng tham thiền, khích lệ sách tấn hàng hậu học tu tập một cách nhiệt tình không mệt mỏi suốt mười bốn năm. Thanh danh sư vang khắp cả từ Bắc chí Nam.

Về tuổi xế chiều, sư ở núi Hồng Loa, mọi người qui tụ về rất đông, tạo thành đạo tràng Liên tông chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư khai đạo giảng pháp như nước chảy mây bay.

Mùa xuân năm Gia Khánh thứ mười lăm, biết nhân duyên giáo hoá đã mãn, sư đoan tọa niệm Phật, khi ấy đức Phật đích thân hiện đến tiếp dẫn, đại chúng đều ngửi thấy mùi hương lạ phảng phất khắp phòng; sau khi hoả táng, thu được hơn trăm hạt xá-lợi.

Sư để lại một số tác phẩm quí như: Mộng đông thiền sư tập, Bổn cảng (Hương Cảng) đông lâm niệm phật đường hữu san bổn … Nay lược nêu một vài câu pháp ngữ vàng ngọc của sư như sau:

1. Một là thật vì sanh tử mà phát tâm Bồ-đề, đó là học đạo chơn chánh. Hai là lấy tín nguyện thâm sâu, trì danh hiệu Phật làm chánh tông Tịnh độ. Ba là lấy sự nhiếp tâm chuyên chú niệm làm phương tiện hạ thủ công phu. Bốn là lấy việc chiết phục phiền não đang hiện hành làm sự tu tâm chính yếu. Năm là lấy sự chuyên trì bốn luật nghi chính yếu làm chỗ căn bản nhập đạo. Sáu là lấy các pháp khổ hạnh làm việc trợ duyên tu đạo. Bảy là lấy sự nhất tâm bất loạn làm chỗ quay về của Tịnh độ. Tám là lấy sự trông thấy các linh ảnh tốt đẹp làm chỗ nghiệm chứng vãng sanh. Tám điều trên đây, người tu Tịnh nghiệp không thể không biết.

2. Một câu A-di-đà Phật là thuốc A-già-đà3, không có bệnh nào mà không trị lành; là vua ngọc châu như ý, không có nguyện nào mà không được thoả mãn; là thuyền Từ vượt qua biển khổ sanh tử, không có khổ nào mà không được độ thoát; là đèn trí tuệ soi sáng vô minh tăm tối, không có bóng tối nào mà không bị chiếu tan. Chỉ cần một lần nghe qua câu Phật hiệu là đã có duyên, chỉ cần một niệm tín tâm liền có thể tương ưng với Phật. Tín tâm chơn thật, lúc nào cũng nguyện mong được vãng sanh. Trong tâm thường trụ hai pháp tín-nguyện này, như trung thần phụng mạng mật chỉ của minh quân, như đứa con hiếu thảo vâng lời đấng cha lành, nhớ nghĩ không quên làm một việc vô cùng trọng yếu, thì cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, yên tĩnh hay náo nhiệt, thảnh thơi hay bận rộn, niệm nhiều hay niệm ít, nói chung đều là chánh nhân vãng sanh. Chỉ sợ không nhiệt tâm thực hành mà thôi. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta mãi ở trong vòng sanh tử luân hồi, lẽ nào không phát tâm cầu xuất li, tu hạnh hướng đạo! Vì chạy theo sự biếng nhác thoái hoá cho nên chúng ta mới ở mãi trong biển sanh tử, chịu vô lượng khổ não. Nay được nghe pháp môn trì danh giản yếu, nhưng nếu vẫn đi theo lối cũ bại hoại, không có tâm huyết chí khí thì sao có thể gọi là bậc Đại Sĩ đệ nhất được!

3. Niệm Phật nên sanh bốn loại tâm. Những gì là bốn? Một là nên sanh tâm hổ thẹn, sám hối những nghiệp từ vô thỉ đến nay mình đã tạo. Hai là nên sanh tâm vui thích khi được nghe pháp môn này. Ba là tự thương xót mình, vì nghiệp sâu dầy nên không gặp được pháp môn này sớm. Bốn là nên sanh tâm cảm kích lòng từ bi như thị của Phật. Trong bốn loại tâm này, chỉ cần có một tâm thì cũng có thể thành tựu Tịnh nghiệp. Niệm Phật cần phải dài lâu liên tục, không được gián đoạn. Gián đoạn thì Tịnh nghiệp không thể thành tựu. Dài lâu phải nên dũng mãnh, không được biếng nhác. Biếng nhác thì Tịnh nghiệp không thể thành. Dài lâu mà không dũng mãnh tức là thối đọa. Dũng mãnh mà không dài lâu tức là không tiến bộ.

Những lời huấn thị trên của sư không lìa giáo pháp, vì khổ tâm của chúng sanh mà ngài hết lòng dạy bảo như vậy.

13. ĐẠI SƯ ẤN QUANG - Tổ Liên tông thứ mười ba - Dân Quốc

Sư họ Triệu, người Thiểm Tây, thuở nhỏ đọc sách Nho nên lớn lên dần dần sa vào vòng soáy tư tưởng huỷ báng Phật pháp sai lầm của Trình Chu (Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi), Hàn Dũ và Âu Dương Tu.

Về sau, do bị bệnh mà sư giác ngộ. Năm hai mươi mốt tuổi, sư đến đãnh lễ, xin xuất gia với Hoà thượng Đạo Thuần ở chùa Liên Hoa Sơn Động, núi Chung Nam. Tại đây, sư chuyên cần nghiên cứu kinh điển, hiểu sâu thông suốt pháp môn Tịnh độ, nhiếp hoá hết thảy các căn cơ, tự gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật pháp phổ độ quần sanh. Sư đi du hoá khắp nơi, có lúc ở Chung Nam, Hồng Loa, Phổ Đà …

Năm Dân Quốc thứ mười chín, sư đến Tô Châu sáng lập đạo tràng Tịnh Độ Linh Nham. Vì thấy chư Tăng có người không như pháp, nên sư phát nguyện không trụ trì chùa viện, không thu đồ chúng, không hoá duyên, cũng không mở hội niệm Phật. Thường ngày, sư không giao tiếp với hàng cư sĩ hay quan quyền, không cười hay nói, không phô trương công việc, không trước tác kinh sách hay sám hối công đức, mà chí khí sư vẫn cao, hạnh vẫn tinh khiết.

Có những hôm, sư đóng cửa tịnh thất để viết thư phúc đáp, trả lời những điều vấn nạn cho bốn chúng học Phật. Bằng ngôn ngữ tinh tế, ý nghĩa sâu xa, sư đã để lại trăm vạn lời tốt đẹp cho hàng hậu học. Nhờ vậy, ngày nay chúng ta có tác phẩm Ấn Quang đại sư văn sao hành thế, với lời văn và ý nghĩa biểu đạt chơn thành, dạy người sống theo luân thường đạo lí, lấy tịnh tâm làm gốc, niệm Phật cầu sanh Tây phương làm mục đích. Mỗi mỗi lời đều hợp với ý Phật ý Tổ, khéo thích hợp tuỳ theo từng loại căn cơ, dù cho hạng sơ cơ đọc tụng cũng có thể thông hiểu. Pháp ngữ của sư lưu truyền khắp nơi, ấn vào tâm khảm con người.

Cuối năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, tại Linh Nham, Sư đoan tọa niệm Phật thác hoá, thọ tám mươi tuổi.

Sư thường dạy: Vì pháp môn Tịnh độ chính là pháp môn Viên đốn đệ nhất, trên thành Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh của mười phương ba đời chư Phật, nên phải hết lòng tán thán hoằng truyền.

Lại trong Tập hoài hạnh thư, sư viết: Pháp môn Tịnh độ chính là pháp môn cực khó mà cũng cực dễ. Nói nó khó chính là chỗ người đại triệt đại ngộ, thâm nhập kinh tạng còn không tin nỗi. Nói nó dễ chính là chỗ kẻ tầm thường ngu dốt cũng thực hành được, nếu chí thành nổ lực niệm thì khi lâm chung liền thấy các tướng tôt đẹp xuất hiện, có khả năng vãng sanh Tây phương. Đối với pháp môn này, người đại triệt đại ngộ, thông hiểu kinh luận sâu xa còn chối bỏ, không hướng tâm đến. Vì một bên chuyên nương vào tự lực, bỏ đi Phật lực. Còn một bên chuyên nương vào Phật lực, nhờ Phật lực để phát huy tự lực. Vì biết khế hợp ba pháp: Phật lực, pháp lực và lực sẵn có của tự tâm nên có khả năng siêu phàm nhập Thánh, liễu thoát sanh tử. Tối trọng yếu của pháp môn này chính là tín, hạnh, nguyện. Có tín, nguyện thì chắc chắn đó là người tu hành chơn chánh. Đã tu trì thì nhất định được vãng sanh.

Lại trong Ấn thí cực lạc viên tự đã tán thán sự thù thắng của pháp môn Tịnh độ: Ôi, thật kì diệu! Giáo của pháp môn Tịnh độ chỉ thẳng tâm người, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Vậy mà còn không khoa trương sự thù thắng của nó.

Người niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn, trải qua số kiếp, tu chứng cần phải phát huy tính cao siêu của nó. Pháp môn này phổ cập cho mọi căn cơ cao thấp, thu nhiếp tất cả các tông như Luật, Thiền, Giáo … Như khi trời mưa, tất cả vạn vật đều được thắm nhuần, như trăm sông cùng chảy ra đại dương. Pháp môn này cũng lại như vậy, trùm khắp hết thảy các pháp đốn, tiệm, không một pháp nào mà không lưu xuất từ pháp giới này. Tất cả các hạnh quyền thật của Đại, Tiểu thừa, không có một pháp nào mà không qui về pháp giới này. Không đoạn hoặc nghiệp mà được dự vào hàng Bổ xứ, tức ngay đời này viên mãn Bồ-đề. Chín cõi chúng sanh lìa pháp môn này thì không thể viên thành phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì không thể lấy gì làm lợi ích cho quần sanh. Vì vậy, hải chúng của Hoa nghiêm hết lòng tuân theo vua mười đại nguyện. Một khi xưng niệm Pháp hoa thì liền chứng được thật tướng các pháp. Hạnh phương tiện tối thắng, ngài Mã Minh nêu bày trong Khởi tín. Đạo dễ hành và mau thành, Long Thọ diễn bày trong Tì-bà-sa. Bậc đại trí Long Thọ được xem là hậu thân của đức Thích Ca, nói Thập nghi luận, mà ý chuyên hướng về Tây phương. Vĩnh Minh được xem là Di-đà thị hiện, trước tác Tứ liệu giản, trọn đời niệm Phật. Hết thảy năm tánh, ba thừa đều chứng chơn thường. Trên thánh dưới phàm đều qua bờ giác. Nên được chín cõi quay về, mười phương chư phật tán thán. Ngàn kinh đồng nêu bày, vạn luận đều tuyên dương.

Thành thật mà nói, một khi bàn đến chỗ cực điểm của giáo thì pháp môn này là đại giáo vô thượng nhất thừa. Song, một người phàm thường muốn đạt được nó thì trước hết phải trồng sâu gốc luân thường đạo lí, như sách Đinh Phúc Bảo nói: “Người học Phật trước hết phải hoàn thiện nhơn đạo, sau đó mới có thể hướng đến chỗ cao hơn”. Vì vậy, khi bàn về tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, Phật giáo luôn dạy con người trước phải hoàn thiện nhân cách đạo làm người, như dạy người cha nên nghiêm từ, người con phải hiếu thuận … khiến cho họ hoàn thiện nhơn đạo, nhiên hậu mới dạy tu pháp xuất thế. Thí như muốn xây nhà cao nhiều tầng, trước tiên nhất định phải làm nền móng kiên cố, khai thông đường nước, sau đó mới có thể xây dựng các tầng lầu cao vững chắc, mà dài lâu không bị sụp đổ. Nếu làm nền móng không kiên cố thì chắc chắn xây chưa xong đã bị sụp đổ. Như khi xưa, Bạch Cư Dị hỏi thiền sư Ô Sào: “Thế nào là đại ý Phật pháp?”

Sư đáp: “Chớ làm các điều ác, vâng làm các điều lành”.

Cho nên, người học Phật pháp trước phải tự khắc kỷ, răn cấm mình. Vì tất cả các việc đều từ trong tâm chơn thật lưu xuất. Người như vậy mới có thể gọi là Phật tử chơn chánh. Nếu tâm người ấy xấu ác mà muốn mượn Phật pháp để tránh nghiệp tội, thì có khác nào người uống thuốc độc, sau khi uống xong, muốn thân thể mình tráng kiện, mạnh khỏe trường thọ, có thể được sao?

Chơn đế của đức Như Lai giảng nói được Tổ Tổ truyền thừa, cho đến nay hương vị của nó vẫn còn đậm đà không phai. Đại sư Ấn Quang là người gìn giữ những lời di giáo ấy, ngài mãi mãi ghi nhớ, không thay đổi quan điểm, thật đúng là bậc long tượng của Phật môn!

II. Kết luận

Từ trước đến nay, chúng ta mãi trôi dạt trong biển sanh tử, song vượt qua ba cõi cũng là chuyện thường vậy! Do mê vọng chẳng biết chánh đạo, tạo tác nghiệp ác nên luân hồi trong các cõi, chẳng biết khi nào thoát khỏi.

May mắn thay cho chúng ta! Với lòng từ bi hoằng nguyện, đức Phật đã khai mở pháp môn Tịnh độ thù thắng, phù hợp cho mọi căn cơ cao thấp. Chỉ cần dựa vào những lời dạy ấy mà tu trì thì tất cả đều có thể nương nhờ từ lực của Ngài, một đời vãng sanh Tây phương, thoát li sanh tử. Như thế, người tín, nguyện niệm Phật chắc chắn thu được lợi ích lớn, làm bậc Thánh hiền. Cho nên, một khi đã hướng về thì chẳng uổng phí vậy.

Trong truyện Tịnh độ có nói: “Đức Phật A-di-đà cùng với hai vị Bồ-tát Quan Âm và Thế Chí cỡi thuyền đại nguyện, dạo biển sanh tử cứu vớt chúng sanh trong thế giới Ta bà này lên thuyền đại nguyện, đưa về Tây phương. Như vậy, nếu người ưa thích vãng sanh thì không thể không vãng sanh.” Lời nói này thật đáng tin vậy.

Ngày nay, cuộc sống của con người nơi phố thị, suốt ngày khẩn trương bận rộn. Nương vào thời vận, người sống theo nghiệp có lúc tiến lúc thối; kẻ chân lấm tay bùn suốt ngày bôn ba, không có thời gian ngơi nghỉ, muốn gặp nhau cũng không phải dễ. Sống giữa cuộc đời bon chen, thật hạnh phúc thay cho những ai trông thấy điện Phật nằm thấp thoáng giữa lưng trừng núi, ẩn khuất trong sương mù; nếu đã gặp được pháp hội trang nghiêm như vậy, muốn tu học nhưng không biết bắt đầu từ đâu thì có thể nương vào pháp môn phương tiện này, không đến nỗi tự cho là Phật pháp khó nghe.

Trải qua vô số kiếp, các bậc tông sư nghiêm trì tịnh giới, thân hành thực tiễn đủ để lưu truyền cho muôn đời sau, cứu chúng sanh khỏi biển khổ sanh tử. Lời nói và việc làm cao thượng của quí ngài tự nhiên uy nghi khả kính, hiện bày mô phạm cho hàng hậu học gắng sức tinh tấn noi theo.

Nay toát yếu lại hành trạng của các ngài, chỉ vì muốn Phật pháp được lưu truyền ngày càng hưng thịnh.

--- o0o ---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com