Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng Về Phật Đản Qua Kính Thánh Cầu (K. Trung Bộ I, 26)

14/04/201919:34(Xem: 2915)
Hướng Về Phật Đản Qua Kính Thánh Cầu (K. Trung Bộ I, 26)
Hướng Về Phật Đản
Qua Kính Thánh Cầu (K. Trung Bộ I, 26) 

 

Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài một cách đích thực hơn bao giờ hết, cho dù từ ngàn xưa hay cả đến ngàn sau.

 

Hằng năm, giao thời Xuân-Hạ, mùa Phật Đản đang tới gần khắp nơi trên hành tinh nhân loại, đối với những ai có phát khởi lòng kính tin hướng tâm đến tinh thần giáo lý của Đức Phật, đều có những giây phút tư duy nghĩ về ngày Đức Phật Đản Sinh.

 

Một Đức Phật lịch sử, đã thật sự có mặt, và tận mắt thấy biết trong cuộc sống lạc thú nơi thế đời, nhưng lại có sự tu tập từ bỏ các dục, có sự thành tựu chứng đắc vô thượng an ổn, không còn bị chi phối các khổ nạn triền ách thế gian, có hành đạo giáo hóa chúng sanh, và cuối cùng có tịch diệt niết bàn viên mãn.

 

Đức Phật Đản Sinh và tịch diệt cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Thế nhưng, toàn bộ tinh thần nội dung giáo lý thâm diệu của Ngài vẫn luôn khẳng định sự tồn tại một cách hùng hồn bất tuyệt, trong sáng và hòa nhập qua từng dòng chảy an bình vào cuộc sống xã hội con người, muôn vật trong mỗi thời đại từ ngàn xưa, và mãi cho đến tận ngàn sau.

 

Chúng ta nghĩ rằng; nếu một xã hội phát triển tốt, thì cũng chính do sự nhận thức đúng đắn lành mạnh từ phía của con người phát triển. Song song với sự phát triển ấy, Tâm Từ, Vô Tham cùng với Giới-Định-Tuệ cũng phải được phát triển trong hàng ngũ người đệ tử Phật có thể hiện qua sự tu tập nhu nhuyễn, thuần tịnh để dẫn đến một trạng thái: “Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát”.

 

Do đó, sự xuất hiện của Đức Phật có hai mục đích là ; giữ sự im lặng của bậc Thánh (tu thiền) và trình bày sự Khổ, Khổ Tập cũng như con đường đưa đến Diệt Khổ. Phật dạy :

“ Nầy các tỷ kheo, có hai sự tầm cầu nầy, Thánh cầu và phi Thánh cầu”. Với tuệ quán thanh tịnh siêu nhân, Đức Phật đã thấy rõ “Những gì tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già…, tự mình bị bệnh…, tự mình bị chết…, sầu…, ô nhiễm… lại đi tìm cầu cái bị ô nhiễm.”

 

 Sự thâm sâu qua lời dạy trên, tất nhiên không phải vượt ra ngoài cuộc sống nầy mà có được, mà chính nơi sự sâu kính trong lòng cuộc sống mới hiển bày diệu lý thâm sâu. Nếu như ngày nào sự chấp thủ còn có mặt “Đây là tôi, đây là của tôi…” thì mọi vấn đề vẫn còn là sự nắm giữ cái bị sanh, già… ô nhiễm. Bởi vì nguồn gốc của đau khổ là tham và chấp thủ (ngã và ngã sở). Cường độ giao động trong dòng tâm thức con người nói riêng và nói chung là cả một cộng đồng xã hội nhân quần, khuynh hướng phát triển như thế nào về Thiện hay Bất Thiện, Đạo đức hay phi Đạo đức, Giáo dục, Nhân- Nghĩa hay phi Giáo Dục và Nhân Nghĩa v.v…

 

Sự lành mạnh hóa sẽ đem lại hưng thịnh sung mãn hạnh phúc và bình an, còn như thấp kém, nghèo nàn bởi do biến chất tha hóa trong tư duy Dục thủ, Kiến thủ… thì mọi biến động bất an sẽ phát sinh cho chính mình và kẻ khác. Đồng thời, mọi việc sẽ manh nha nhiều ác xấu hơn trong cuộc sống con người. Thấy rõ nguyên nhân ấy, Đức Phật đã xác chứng qua lời dạy:

 

“Có người tự mình bị sanh… già… bệnh… chết, sầu bi, ô nhiễm… Nầy các tỳ kheo, những chấp thủ ấy, Người ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng… Như vậy gọi là phi Thánh cầu.” Vì những sự việc trên có liên hệ tích cực đến thế giới ngũ thủ uẩn. Như vậy, đồng nghĩa với đau khổ,  sinh diệt, trầm luân.

 

Chúng ta thấy, từ một tâm thức náo động và não hại, lại cộng thêm vào những nhân tố giao động và não hại khác, từng khoảnh khắc ý niệm vô thường lại thêm vào trong khoảnh khác vô thường kế tiếp, sự đấu tranh tàn hại do tham đắm, chấp thủ và ô nhiễm gây ra, lại cộng thêm vào những ý niệm đồng tình với những đấu tranh, phẫn hận và những tư duy tàn hại khác… Chính vì vậy, đã tạo nên dòng biến động cường độ cho đau khổ và luân chuyển trong biển sanh tử.

 

Từ nhận thức trên, Đức Phật đã mở ra một sinh lộ để đến thế giới an bình, đó là một hành động có ý thức giác ngộ ngang qua hiện tượng các pháp rằng :

 “Nầy các tỳ kheo, thế nào là Thánh cầu ? Ở đây, có người tự mình bị sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, ô nhiễm. Sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, già, bệnh, chết… Tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn. Nầy các tỳ kheo, như vậy gọi là Thánh cầu.”

 

Đức Phật hay Đạo Phật mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người và muôn loài một cách đích thực hơn bao giờ hết, cho dù từ ngàn xưa hay cả đến ngàn sau. Nếu như sự “bị sanh…đến ô nhiễm” tác hại do các chất độc khí tạo ra từ không gian hay từ dòng nước, thì môi trường sống sẽ bị dẫn đến tàn hại, nhiệt não, bệnh tật cho cả một vùng sinh thái.

 

Nhưng ở đây, sự biến động tàn hại nói trên, nó chỉ là hệ quả của ngọn ngành. Điều mà chúng ta muốn nói đến là phải thấy từ nguồn, từ buổi ban đầu, đó là sự nhiễm hại tàn phá manh nha do những ý niệm tà kiến, những kiến chấp do dục tham cuồng nhiệt, những ác tư duy khát vọng mơ hồ, những tư kiến ích kỷ thấp kém đã bị chìm sâu vào lạc thú thường tình… Thì đây, sẽ tạo thành một vòng xoáy, một trục quay có sức công phá cực kỳ nguy hiểm cho thế giới loài người. Đã có biết bao sự bất ổn, mất thăng bằng từ môi trường cho đến tâm sinh lý, cảm tính, nhân tính, đạo đức từ phía con người.

 

Tất cả đều do đắm đuối mê lầm mãi miết của sự đi tìm cầu cái “bị sanh… bị ô nhiễm”. Trái lại, tự trong mỗi con người chúng ta ý thức được giá trị sự sống hay cuộc sống một cách đúng đắn cũng như về mọi sự vật hiện tượng (nội giới và ngoại giới), thấy rằng; bản chất của nó không ngừng biến động, luôn chuyển động từ một trạng thái nầy đến một trạng thái khác. Thời như vậy, sẽ dẫn đến ý niệm vô tranh, không nhiệt não, định tĩnh, tâm hiền thiện tươi mát. Chính đây là sự mạch nguồn cho đạo lộ an ổn khỏi các khổ ách.

 

Có ba giai đoạn của Tâm:

 

-. Sanh Tâm: giai đoạn nầy là thời điểm giao tiếp giữa Căn và Trần.

 

-. Trụ Tâm  : Giai đoạn nầy là hệ quả qua quá trình giao tiếp để xuất hiện một dòng lực tham ái, chấp thủ, hữu.

 

-. Diệt Tâm : Đến giai đoạn nầy, nói lên công năng vận dụng ý thức trong quá trình  có tư duy tu tập để được hữu phần đoạn diệt, sanh nhàm chán, ly tham.

 

Trải qua ba giai đoạn trên, chúng ta thấy cái nhìn đặc biệt của bậc đạo sư về thiền tư, thiền quán, giúp cho chúng ta có dịp nhìn lại sự dong ruổi của tâm theo dòng luân chuyển bất định trong cõi tử sanh. Trong một bài kinh khác, Đức Phật đề cập đến một trạng thái trói buộc do dục hỷ sinh ra, và cũng chính đoạn trừ mọi dục hỷ mà một hành giả mới được thong dong tịnh lạc, Phật dạy :

 

                               “Chính HỶ trói buộc đời

                                Tầm cầu dẫn hành đời

                                 Do đoạn trừ KHÁT ÁI

                                 Mới được gọi NIẾT BÀN”

                                                                          (Kinh Tương Ưng I. 39).

 

Điều mà chúng ta thấy ở giáo lý duyên khởi (12 nhân duyên), đó là lý do vì sao Đức Phật giải thích về con người lại phải có mặt trong cuộc đời nầy. Và vì sao Đức Phật lại do dự không muốn trình bày “Pháp” mà Ngài đã trải nghiệm và sau khi thực chứng vô thượng bồ đề, Phật dạy:

 

“Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái lạc ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý (y tánh duyên khởi pháp), thật khó mà thấy được tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y đều được từ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết bàn”.

 

Theo lý duyên khởi, tương quan tương duyên với nhau mà các pháp khởi lên, chuyển biến và đoạn diệt. Do đó, thiền tư thiền quán lại đóng một vai trò quan trọng trong việc tu tập để chuyển hóa. Nếu như không nhận thức được rằng: “Tự mình bị sanh… lại đi tìm cầu cái bị sanh…” chính ở đây, vị ấy không thấy lý duyên khởi của vạn hữu. Và trái lại là đoạn trừ mọi kiết sử, thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp, thực tập, dẫn đến một trạng thái tịch tịnh Niết bàn. Do sự chứng ngộ và thành tựu trên, bậc đạo sư đã nói lên lời kệ:

 

                                 “Hết thảy pháp không nhiễm

                                   Hết thảy pháp xã ly

                                   Ta sống chân giải thoát

                                   Đoạn tận mọi khát ái…”

 

Đến đây, Đức Phật cho biết thêm về sự cột trói đối với vị đang tu tập, chính là năm dục tăng trưởng (sắc, thinh, hương vị, xúc) khi được khởi lên “ khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục hấp dẫn… không thấy sự nguy hại của chúng, không rõ sự xuất ly khỏi chúng mà thọ dụng chúng… Các người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa. Thời như vậy, vị ấy đã bị ác ma xử như ý muốn, không vượt khỏi tầm mắt của ác ma”. Một điều nữa, mà chúng ta cần phải thấy ở lời dạy qua bài kinh nầy là:

 

-. Nếu như vị có tu tập, không sanh tâm tham đắm, không bị sự cấu nhiễm là vấn đề cần thiết, không để lại những vết tích trên con đường giải thoát, như cánh chim bay vào hư không, đó là kết quả của người tu theo Phật.

 

Cho nên năm chi thiền Sắc giới (Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) và Tứ thiền Vô Sắc giới, trú và Diệt Thọ Tưởng, thấy với trí tuệ, các lậu hoặc không còn. Chính ở đây là cứ địa, là nơi trú ẩn an ổn, bấy giờ hành giả thật sự vượt khỏi tầm mắt của ác ma, vượt thoát khỏi những ý lực của ác ma, vị ấy đã làm cho ác ma mù mắt.

 

Với những ý nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu nôm na rằng: Do nhiếp tâm chánh niệm tĩnh giác, rõ biết được Khổ và nguyên nhân của Khổ. Đồng thời, tìm cầu đạo lộ an ổn vô thượng, vượt thoát khỏi các triền ách, chấm dứt mọi khổ pháp, thành tựu vô thượng thiện pháp, giải thoát (Diệt và Đạo). 

 

Với kinh nghiệm bản thân của Đức Phật, từ khi còn là một đạo sĩ lang thang tầm đạo khắp núi rừng hang đọng,  đến khi chứng đạt vô thượng bồ đề là một quá trình tu tập thể nghiệm chơn lý. Sau đó, Đức Phật đã thật sự công bố chánh pháp vào đời :

 

                                       “Giống lên trống bất tử

                                        Trong thế giới mù lòa…”

 

Ta thấy, Đức Phật không dấu lại những gì trong bàn tay của một người thầy, Ngài chỉ dạy sự tu tập như chính Ngài đã trải nghiệm.

 

Hôm nay, với một nghĩa cử mà tất cả chúng ta cùng nghĩ về ngày Đức Phật Đản sinh. Và qua lời dạy của Ngài, trong tinh thần giác ngộ tu tập và giải thoát, với sự hướng tâm chánh niệm ấy, Đức Phật luôn đản sinh trong cuộc đời, và Đức Phật hằng đản sinh từng ý niệm tĩnh thức trong mỗi chúng ta ngay giây phút hiện tại. 

                                                                     

MẶC PHƯƠNG TỬ

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/04/2014(Xem: 6443)
Lời Ru - Chú Đại Bi Do Ca Sĩ Phi Nhung trình bày
25/04/2014(Xem: 7087)
Nhạc Sĩ Lê Minh Hiền, pháp danh Quảng Minh Đức. Sinh năm 1965 tại làng An Bằng, huyện Phú Vang, Huế. Vượt biển năm 1982 và đến Mỹ định cư từ 1984, sau đó đã lập gia đình với Ca Sĩ Võ Thu Nga và có ba con trai. Năm 2007 quy y thọ ngũ giới với Hoà Thượng Ân Sư Thích Tịnh Từ Tu viện trưởng Tu viện Kim Sơn. Nhạc Sĩ Lê Minh Hiền đã sáng tác và tự thực hiện 4 CD nhạc đời và 2 CD nhạc Phật Ca Thiền Ca. Mỗi ngày nhạc sĩ dành thời gian để đọc, nghe, học từ những bài Pháp thoại của Chư Tôn Đức và ước nguyện dùng âm nhạc để truyền đạt Phật Pháp tới giới trẻ.
23/04/2014(Xem: 8003)
Phật Ca & Thiền Ca 02 Nhạc sĩ Lê Minh Hiền. 01. Nguyện Hương. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 02. Quan Âm Vô Lượng. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Võ Thu Nga 03. Sống. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Gia Huy 04. Tiếng Vọng Trái Tim. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 05. Hoa Thanh Lương. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Phương Trang 06. Nguyện Cho Thế Giới Hòa Bình. Nhạc: Lê Minh Hiền. Họp ca Võ Thu Nga & Cadillac 07. Dòng Sông Êm Đềm. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 08. Ánh Sáng Từ Bi. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Gia Huy 09. Đến Rồi Đi. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 10. Cảm ơn Thời Gian. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Võ Thu Nga 11. 12 Lời Khấn Nguyện của Quán Thế Âm. Lời TS Thích Tịnh Từ (giọng đọc: Huy Hoàng & Võ Thu Nga)
17/12/2013(Xem: 10865)
Di Đà Sáu chữ nhớ ơn sâu, Công phu ráng luyện giúp thân mình. Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Nam, thật phương Nam Lửa Bính Đinh. Mô, chỉ rõ vật vô hình. A, Tiên Thiên Thận Thủy Bắc Phương Nhâm Quý. Di, giữ bền chặt Tinh Khí Thần. Đà, sắc vàng trùm khắp cả. Phật, thân tịnh ở nơi mình.
17/12/2013(Xem: 11764)
Lục Căn, Lục Trần Nhạc và Lời : Quách Vĩnh-Thiện Cap d'Agde, le 24 juillet 2005 Lục Căn, Lục Trần là Linh Căn của ta, Thể xác ta cấu trúc từ siêu nhiên, Lục Căn, Lục Trần giam trong phiền muộn, Sai khiến Sân, Si, Hỉ, Ái, Dục, Tham.
09/12/2013(Xem: 11350)
Quay Về Nội Tâm Nhạc và LờI : Quách Vĩnh-Thiện Paris, le 3 mars 2004. Tiếng hát : Mỹ Dung.
14/11/2013(Xem: 6072)
Mừng Phật Đản. Bienvenue à la naissance du Bouddha. Paroles et Musique : Quách Vĩnh Thiện. Traduction française : Minh Thiện - Trần Hữu Danh. Chanteuse : Hương Giang. www.thienmusic.com www.youtube.com/thienmusic
03/10/2013(Xem: 22051)
1. TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Nhạc: Võ Tá Hân; thơ: Tuệ Kiên; Họp Ca Nhóm Cadillac 2. QUẢNG ĐỨC MÁI CHÙA CHUNG Nhạc: Nguyễn Tuấn; thơ: Tuệ Kiên; Ca Sĩ Tuyết Mai 3. MỪNG CHU NIÊN 20 NĂM TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Nhạc: Lê Minh Hiền; thơ: Thích Viên Tịnh; Họp Ca Nhóm Tuệ Đăng 4. ĐẠO TRÀNG TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Nhạc: Khánh Hoàng; Thơ: Thích Nhật Tân; Ca Sĩ Thùy Dương 5. CHIẾC CẦU TỪ BI. Nhạc: Khánh Hoàng; thơ: Thanh Phi; Ca Sĩ Bảo Lộc 6. ÁNH HÀO QUANG QUẢNG ĐỨC Nhạc: Võ Tá Hân; Thơ: Lâm Như Tạng. Nhóm Cadillac 7. BÀI TƯỜNG THUẬT ĐẠI LỄ CHU NIÊN 20 NĂM TV QUẢNG ĐỨC Bài của Thích Tịnh Tuệ, giọng đọc: Tường Dinh (Đài Radio FM 97.4) 8. TT THÍCH NGUYÊN TẠNG TRẢ LỜI PHỎNG VẤN Thông Tín Viên VOA Hoa Kỳ, Ngọc Hân thực hiện 9. KIẾN TRÚC CỦA TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Bài của TT Nguyên Tạng, giọng đọc: Diễm Hương (VOA, Hoa Kỳ)
28/08/2013(Xem: 10113)
Trăm năm ngó xuống đời hư ảo Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời Yêu thương xin nở nụ cười Vị tha là để lòng người thanh cao.
12/06/2013(Xem: 5237)
Mỗi mùa Phật Đản là dịp để chúng ta quán chiếu nhiều và sâu về sự ra đời của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Mỗi cử động của Ngài dù nhỏ nhiệm đến đâu cũng ẩn chứa những bài pháp mầu nhiệm. Năm nay chúng ta hãy quán chiếu những bài Pháp liên hệ đến sự ra đời của Đấng Thiên Nhơn Chi Đạo Sư
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567