Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần giáng đản

09/05/201102:56(Xem: 2566)
Tinh thần giáng đản

Phat Dan Sanh 3 

Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng. Sự thực ấy không chỉ xác định được nhân cách cho con người mà còn là chuẩn mực để nhận định nhân cách của thánh nhân và phàm nhân. Một sự khác biệt chỉ nằm trong sát na của vọng niệm, bên mé bờ vô hình tướng của ngộ và mê, của giác và vọng, của chân và ngụy, của xả và chấp, và khoảng cách ấy là bao xa.

Trong lịch sử loài người có hơn một minh chứng hùng hồn về khả tính của con người có thể xả ly, có thể vượt qua, có thể quăng bỏ một cách dứt khoát để trở nên sáng lạn, chói lòa. Nhân cách ấy đã giành trọn cuộc đời mình rao giảng một nền giáo lý vô ngã, tạo tiền đề cho một nền triết học tôn giáo phi thường của phương Đông. Sự giác ngộ quán triệt về vô ngã ấy như cú nhảy thiện nghệ vượt hẳn qua bờ mé bên kia của dòng sanh tử khổ đau. Để mấy ngàn năm sau đồng vọng lời ca vang huyền thoại. Và vì thế, đã không biết tự bao giờ, nhân vật lịch sử ấy đã trở thành một nhân cách huyền thoại của con người như câu chuyện đản sanh.

Câu chuyện của tinh thần tâm linh phương Đông

Câu chuyện đản sanh bắt đầu từ chi tiết có thật của lịch sử, cách nay khoảng hai ngàn sáu trăm ba mươi lăm năm tại thành Kapilavatthu ở Ấn Độ (tức Nepal ngày nay), một buổi sáng tháng tư có một vị thái tử ra đời, bậc vương tôn ấy về sau đã làm nên huyền thoại phương Đông, và câu chuyện đản sanh được kể về nhân vật này sẽ sơ lược đại khái như vầy:

Nhận đến ngày lâm bồn đã đến, hoàng hậu Maya lên đường trở về quê nhà để hạ sanh đứa con đầu lòng như tập tục của xứ này. Khi Người và đoàn xa giá cung nữ tùy tùng đến vườn Lumbini thì Người bỗng nhiên chuyển dạ, một bậc bồ-tát phi phàm đã hạ sanh. Vừa lọt lòng mẹ, bồ-tát liền bước đi bảy bước trên bảy đóa hoa sen, đến bước thứ bảy, một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời với lời tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý). Khi ấy đại địa chấn động, trời mưa cam lộ cúng dường, thiên nữ rãi hoa, nhạc trời tự trỗi, muôn hoa trong vườn đua nhau nỡ rộ chào mừng một bậc thánh giáng trần…

Câu chuyện huyền thoại ấy đã chứa đựng một nền minh triết của phương Đông, gắn với sự ra đời của một nhân cách siêu việt là hoa sen, là con số bảy, là sự có mặt của chư thiên địa và các thánh thần, là một câu nói gây ra nhiều sự bàn cải cho những ai còn lấn cấn giữa tính biểu trưng của huyền thoại hay ngôn ngữ trừu tượng và sự thật lịch sử.

Súc tích một nền minh triết

Hoa sen, đó là sự tinh khiết được ví von như phẩm hạnh thanh cao của nhân cách Người, từ trong đầm lầy sanh tử đã vươn dậy nở hoa, tỏa hương, sắc tinh khôi và hương thanh thoát. Trong truyền thống tâm linh của con người phương Đông, mà dẫn đầu là người Ấn Độ, hoa sen là biểu trưng thanh cao cho cốt cách con người, sự ví von này là cách tôn xưng cao nhất có thể để người ta bày tỏ tình cảm, niềm tôn kính đối với một nhân cách thánh nhân.

Sinh ra với vị trí vương tôn, lớn lên từ cung vàng điện ngọc, trưởng thành với tùy tùng hầu hạ, với vợ đẹp con ngoan,... sống trong sự sung túc hoàn mĩ nhất của trần gian như thế nhưng con người ấy đã luôn băn khoăn: đây không phải là hạnh phúc cứu cánh của kiếp người, dù ở vị trí quyền lực nhất, giàu có nhất, hoàn hảo nhất thì vẫn không thể nào tránh khỏi những phiền não căn bản của chúng sinh. Và rồi đến một ngày Người ấy rũ bỏ xuống đất tất cả để vào rừng tìm câu trả lời cho sanh tử và trở thành một kẻ hành khất thực thụ trong xóm làng.

Ngài đã trở thành Buddha, một bậc giác ngộ đã vượt qua khỏi sự chi phối từ sức mạnh nghiệp lực phiền não sanh tử của chúng sanh. Đã xả ly một cách dứt khoát những thứ mà con người luôn hướng đến để bị cột vào, bị mê hoặc, bị trở thành nô lệ. Trong những cám dỗ của cuộc đời này, bậc giác ngộ ấy đã được mở trói, đã sáng trong, thanh thoát như một đóa sen trong đầm lầy, trong sanh tử trầm luân.

Bên cạnh hình tượng hoa sen trong sự kiện đản sanh là bảy bước đi kỳ diệu của bậc thánh. Một số nhà Phật học đã từng lý giải, sao là bảy bước chân mà không phải một, hai, ba, bốn hay năm, sáu. Đây là con số bảy của tứ phương-tam thời hay con số vượt ngoài số sáu của sáu nẻo luân hồi sanh tử như nhân cách của một bậc giác ngộ? dẫu với sự lý giải nào cũng nằm trong sự ước đoán của người học về sau. Chi tiết huyền sử ấy là sự kết tinh từ một chuỗi dài lời truyền và cảm tình tôn giáo qua nhiều thế hệ, là sự phản ảnh trung thực nhất về tình cảm và lòng kính ngưỡng đức Thế Tôn của con người Đông phương cách chúng ta hơn hai ngàn năm về trước.

Giá trị chân thực của con người qua hình tượng đản sanh

Vừa lọt lòng mẹ bồ-tát đã bước trên bảy đóa hoa sen và dõng dạc cất lời tuyên bố “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Dĩ nhiên, bậc giác ngộ là không có chúng sanh nào sánh được cho dù đó là chúng sanh tối thắng trời thần, bởi tôn quý như thế nên trời mới mưa cam lộ, thiên nữ mới cúng hoa, địa thần mới chấn động. Nhưng sự tôn quý sao lại không được cho là đã nói ra khi bồ-tát còn ở cung trời đâu suất, ở cảnh trời quý báu ấy dù chỉ nói “ta là tôn quý nhất cõi trời” thì cũng đẳng cấp hơn bởi chúng sanh cảnh trời tất nhiên hơn hẳn nhân gian.

Bồ-tát xác nhận đến nhân gian, làm người để tu thành chánh giác, ắt hẳn nhân gian có đặc tính ưu việt, làm trung tâm thuận tiện cho bước chuyển cuối cùng từ mê đến giác, từ vọng đến chân, từ khổ đến niết-bàn, là nơi hội đủ điều kiện căn bản để hai dòng nghiệp thiện ác của thánh phàm tiếp nhận nguồn năng lượng chiêu cảm.

Bởi xác định thân người ở nhân gian có thể tu thành chánh giác cho nên bồ-tát giáng trần. Bởi sự giác ngộ tột cùng vượt ra ngoài sanh tử là điều không thể so sánh được trong sự phân biệt đẳng cấp của các loài chúng sanh cho nên được cho là tôn quý. Bởi thân người được cha mẹ sanh ra này đây có thể cho một hứa hẹn rằng có một chặng đường sống➝tu học➝giác ngộ, cho nên chính “ta”- nơi thân người này là tôn quý.

Nguồn gốc của truyền thuyết “bảy bước xưng tôn” dường như được tìm thấy sớm nhất trong tạng kinh Trường A-hàm hay Trường Bộ tương đương, với bài kinh Sơ Đại Bản, ở đó đức Thế Tôn nói về nhân duyên ra đời, thành đạo… của bảy đức Phật từ trong quá khứ, và ngài cũng không ngoại lệ, bởi đó là “pháp thường của chư Phật”. Và nguyên văn của ý kinh này như sau: “aggo ‘ham asmi lokassa, jeṭṭho ‘ham asmi lokassa, seṭṭho ‘ham asmi lokassa, ayam antimā jāti, natthi dāni punabhavo” [Ta là đấng tối thượng của thế gian, là tối thắng của thế gian, là tối tôn của thế gian. Đây là sự sanh cuối cùng, không còn đời nào nữa.]

Sau gần hai ngàn sáu trăm năm, ý kinh ấy cho con người của thế kỷ chúng ta nhiều khả tính để đoán định. Trong đó có thể nói, ắt hẳn yếu tố này được thiết lập nên từ quan điểm hướng về sự giác ngộ, chỉ có sự giác ngộ (Buddha) mới là điều đáng quý nhất trong các loài chúng sanh, chỉ có sự giải thoát phiền não mới là cứu cánh nhất trong sự sống này. Và điều đáng quý đó đang bắt đầu bằng chính thân người này đây. Bởi trong nền giáo lý nhân bản của Phật đà, luôn nhấn mạnh vai trò tối ưu của loài người trong sáu đường sanh tử hay nói khác hơn, nền giáo lý đặt trọng tâm vào sự thực nghiệm của chính bản thân con người, và nên làm gì ngay khi ta có thể. Vì rằng, hiện tại này là yếu tố cho ta quyết định các vấn đề.

Triết học Phật giáo là sự chắt lọc kết tinh nền giáo lý sống, được thực nghiệm và cảm nhận một cách sâu sắc tùy bởi căn cơ của con người đương thời, sức mạnh của sự thực nghiệm tôn giáo ấy là động lực để những câu chuyện ngày càng lung linh hơn, huyền thoại hơn cho đến khi nó được dừng lại bằng nền văn minh chữ viết, đây cũng là yếu tố đầu tiên cho sự ra đời của nền văn học tiền đại thừa và đại thừa.

Với một tôn giáo được hình thành và phát triển trước thời văn minh chữ viết của loài người như thế, thì người học Phật sẽ tự biết mình nên có một thái độ nào để có ích cho bản thân. Và đến đây cho phép chúng ta có thể nhận xét: Phủ định tất cả để đẩy mình đến vực sâu của sự hoài nghi, hay chấp trước tất cả vào văn tự để quay lưng với sự thật tri thức hiện đại của con người, là thái độ dại dột từ cái nhìn chưa thấu đáo, chưa có đủ niềm tin quyết liệt với bồ-đề tâm, là điều không nên của kẻ cầu học Phật của hôm nay.

Đạo Phật của hai ngàn năm trăm năm sau, hay còn sau hơn bao nhiêu nghìn năm nữa, khi con người được xem là chạm đến tận cùng của nền khoa học, với nền giáo lý của sự thật thực nghiệm, tôn giáo ấy có khi được xem là một nền triết học, hay một thứ gì đó mà khoa học đã gặp gỡ và có thể chạm đến. Tuy nhiên, sự thật thì tôn giáo ấy có nhiều lãnh vực mà khoa học không thể bước vào, bởi những thứ thuộc về giá trị tinh thần tâm linh thì hoàn toàn thuộc về phạm trù khác. Và vì thế, những chi tiết huyền thoại về Phật đà, đã được lưu truyền bởi hàng đệ tử, bằng câu chuyện đản sanh với hoa sen, với bảy bước xưng tôn, với sự vui mừng của chư thánh thần trời đất ấy, là những giá trị tinh thần, hàm súc nền minh triết Đông phương, được viết nên từ tình cảm giáo đồ Phật giáo của Đông phương, kết tinh lại tất cả lòng thành và niềm tôn kính tin yêu của hai mươi lăm thế kỷ lịch đại giáo đồ đối với bậc giáo chủ, dù truyền thuyết mà không hề đứng bên lề của nhận thức hiện đại.

Tất nhiên, sự thần thoại hóa do tình cảm của tín đồ giành cho đấng giáo chủ là một mẫu số chung của vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, tình cảm đó được căn cứ từ đâu, phản ảnh được điều gì về nền tảng giáo lý của tôn giáo ấy, và nó có đem lại lợi ích cho con người hay không thì là một điều khác biệt. Nét khác biệt ấy cho thấy cái riêng của từng tôn giáo.

Đức Như Lai, kẻ đến đi như sự thật, không nhiễm trước những gì có được trong đời, không mong cầu sự ngưỡng vọng tôn bái. Bậc dũng sĩ mạnh mẽ nhất có thể chiến thắng được phiền não của sanh tử chúng sanh, người có khả năng quăng bỏ một cách dứt khoát cái tôi và cái của tôi trong tinh thần vô ngã tuyệt đối. Bậc vô thượng sỹ chân thật như thế mới có thể tạo nên sự đồng vọng tôn sùng của nhân loại suốt chặng đường xuyên lịch sử con người. Để từ phẩm chất ấy mà hàng đệ tử viết thành câu chuyện đản sanh như Phật giáo đồ chúng ta đang có hôm nay.

Khải Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/04/2015(Xem: 10157)
TÁN PHẬT DƯỢC SƯ - Trường Ca Kinh Dược Sư - Võ Tá Hân phổ nhạc
27/04/2015(Xem: 10886)
NGUYỆN CẦU AN LÀNH - Trường Ca Kinh Dược Sư - Võ Tá Hân phổ nhạc - Hợp ca Nhóm Cadillac
11/03/2015(Xem: 4878)
KINH PHÁP CÚ - Khai Kinh - Hợp Ca - Chọn lọc Hình ảnh Diệu Hạnh
11/03/2015(Xem: 4287)
Nhạc: Võ Tá Hân - Thi Kệ: Thích Giác Đẳng
21/01/2015(Xem: 9477)
NO CHARGE Melba Montgomery Writer: HARLAN HOWARD Recitation: My little boy came into the kitchen this evenin' While I was fixin' supper And he handed me a piece of paper he'd been writin' on And after wipin' my hands on my apron I read it - and this is what it said: For mowin' the yard - five dollars And for makin' my own bed this week - one dollar And for goin' to the store - fifty cents An' playin' with little brother, while you went shoppin' - twenty-five cents Takin' out the trash - one dollar Gettin' a good report card - five dollars And for rakin' the yard - two dollars Total owed - fourteen seventy-five. Well, I looked at 'im standin' there expectantly And a thousand mem'ries flashed through my mind So I picked up the pen, turnin' the paper over, This is what I wrote: For nine months I carried you Growin' inside me - NO CHARGE For the nights I've sat up with you, Doctored you, prayed for you - NO CHARGE For the time and the tears. And the cost through the years, there's NO CHARG
09/12/2014(Xem: 11236)
Mừng Xuân Di Lặc - Nhạc Võ Tá Hân - Thơ Tuệ Kiên
01/11/2014(Xem: 10132)
Nỗi Nhớ Quê Hương: Lời...Thích Nữ Nhuận Hải. Phổ Nhạc NS Giác An... Ca Sĩ... Yến Ngọc
01/11/2014(Xem: 13672)
33 Pháp Tướng của QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT - Nhạc Võ Tá Hân
13/06/2014(Xem: 6715)
Kinh Phật -- Gia Huy - Nhạc Phật giáo
11/05/2014(Xem: 6650)
Mừng Phật Đản - Bienvenue à la naissance du Bouddha Let's rejoice at the Buddha's advent. Music and Lyrics : Quách Vĩnh Thiện March 19, 2010. Voice : Hương Giang http://thienmusic.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567