Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duy ngã hay vô ngã

28/04/201113:09(Xem: 4547)
Duy ngã hay vô ngã
Phat Dan Sanh 3
DUY NGÃ HAY VÔ NGÃ
TT. Thích Minh Đạt

Mâu thuẫn?

Giáo lý Phật Giáo từ đầu đến cuối mệnh danh là giáo lý vô ngã; thế nhưng cũng có một số người bị “lướng vướng” vào câu “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” rồi bảo rằng giáo lý Nhà Phật là giáo lý Duy Ngã. Thậm chí còn bảo Đức Phật sao mà ngã mạn quá, dám tự cho mình là người duy nhất không ai bằng. Nếu Đức Phật là tự tôn, tự đại và giáo lý do Ngài tuyên thuyết là duy ngã, thì không có gì mâu thuẫn hơn. Hy vọng bài viết nhỏ bé này sẽ giải tỏa được một phần nào thắc mắc.

Bài viết này được viết vào mùa Đản Sanh của Đức Từ Phụ; do vậy, thiết tưởng nên dành một đôi dòng để ôn lại “tiểu sử” của Ngài.

Thân thế:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi chưa đi tu, chưa thành đạo có tên là Sĩ Đạt Ta hay Tất Đạt Đa (Siddhattha). Họ của Ngài Gotama ta đọc dưới tên phiên âm Hán Việt là Cồ Đàm. Thân phụ của Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và thân mẫu của Ngài là Hoàng hậu Đại Ma Gia (Mahà Màyà). Ngài sinh vào ngày trăng tròn tháng 5 năm 624 trước tây lịch, nhằm ngày Rằm tháng 4 năm Tân Dậu.

Sự nghiệp:

Ngài là con một, con cầu và đương nhiên là Đông cung Thái Tử. Ngôi vua chắc chắn nằm trong tay Ngài. Thế nhưng Ngài đã từ chối, không muốn làm Quốc Vương, Nhân Vương mà làm Pháp Vương hay Y Vương.

Không có một sự nghiệp nào mà không ra công dồi mài cần khổ. Ngôi vị Pháp Vương lại cần phải miệt mài cần khổ nhiều hơn nữa. Vì vậy Ngài đã xuất gia để có nhiều thì giờ hơn trong sự nghiệp “tôi kinh luyện sử”.

Ước nguyện càng lớn thì ý chí càng cần phải cao và phải đủ mạnh mới mong đạt được sự thành tựu viên mãn. Thật vậy, Ngài đã phấn đấu mãnh liệt, bất khuất mọi gian lao thử thách, chỉ 7 năm thôi, Ngài đã hoàn thành viên mãn ý nguyện cao cả của Ngài. Ý nguyện đó là ý nguyện độ sanh hay nói rõ hơn Sự Nghiệp của đời Ngài là Sự Nghiệp Độ Sanh.

Kinh Pháp Hoa trong phần mở đầu Ngài đã nhắc lại ý nguyện hay mục đích của đời Ngài là phơi bày (khai) và chỉ rõ (thị) cho chúng sanh nhận biết (ngoä) rằng mình và Phật không khác (nhập) (Khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri kiến). Và, trước khi xả bỏ huyễn thân, một lần nữa, Ngài lại nhấn mạnh rằng “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành”. Suốt gần 50 năm Ngài chỉ làm một việc đó thôi.

Sau khi đã tuyên bày đầy đủ mọi phương pháp để giúp cho chúng sanh thực tập hầu đạt được kết quả mỹ mãn như Ngài, Ngài đã nhập diệt vào ngày trăng tròn tháng 3 năm 544 trước tây lịch; nhằm ngày Rằm tháng 2 năm Tân Tỵ. Tính theo tuổi thế nhân, Ngài thọ 80 tuổi.

Năm 1951, các quốc gia theo Phật Giáo trên thế giới nhóm họp tại Tích Lan đã chọn ngày Niết Bàn của Đức Phật làm Phật lịch. Do vậy, Phật lịch tính đến Rằm tháng 2 vừa qua là 2546; và Phật Đản năm nay (2002) là lần thứ 2626.

Duy ngã hay vô ngã?

Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Đức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Đạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu; mỗi câu 4 chữ, tổng cọng 16 chữ: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ!”

“Ngã” đây phải được hiểu là chấp ngã, là dính mắc, là bị ràng buộc đủ mọi thứ. Chấp ngã có gốc rễ từ tham, sân, si. Tùy theo tham sân si nhiều hay ít, nặng hay nhẹ mà thọ sanh nơi các cõi trời (thiên thượng) hay đọa ở các cõi địa ngục (thiên hạ). Các cõi trời được xem như ở trên, các cõi địa ngục được xem như ở dưới; mặc dù không hẳn là vậy, nhưng chúng sanh đã hiểu vậy, Phật tùy theo đó để khai thị. Từ đó, câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” có thể hiểu rằng : Ta từ vô lượng kiếp đến nay, nhiều khi sanh lên các cõi trời, lắm lần đọa vào các địa ngục, đầu dây mối nhợ không do đâu khác hơn là tham sân si đẩy đưa đến ngã chấp mà không thấy rõ bản chất vô ngã, duyên sanh từ thân tâm đến hoàn cảnh chung quanh. Đó là lời khai thị và cũng là lời cảnh cáo ngay từ buổi bình minh của đời Ngài.

Đến đây duy ngã hay vô ngã có thể đã được vơi đi phần nào.

“Ta đi lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà chưa gặp kẻ làm nhà. Nay ta đã gặp ngươi rồi, ngươi đừng hòng cất nhà thêm được nữa, những đòn tay, những cột kèo, những rui mè... của ngươi đã bị mục rã cả rồi...” Pháp Cú câu 154.

Kẻ làm nhà đây là tham lam ái dục, độc đầu tiên trong ba độc. Nhà là chiếc thân do ngũ uẩn chung hợp. Cột kèo... là những phiền não nhiễm ô. Mục rã rồi tức Đức Phật đã chinh phục, đã vượt lên trên, đã đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nói rõ hơn là đã thành tựu tuệ giác siêu việt. Không còn bị nghiệp lực đẩy đưa đây đó mà chỉ có nguyện lực độ sanh. Do vậy Ngài tuyên bố:
“Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ” ([Vì chưa tìm ra nguyên nhân], nên trải qua vô số kiếp ta phải chịu sanh tử luân hồi. [Nay đã thấy rõ nguyên nhân và nhất là đã có phương pháp diệt trừ], thì sanh tử luân hồi không còn chi phối ta được nữa).

Để chứng ngộ:

Đức Phật thuyết pháp là tuyên thuyết những phương pháp do chính bản thân Ngài thực tập và chứng nghiệm kết quả với tất cả thành tâm thiện ý là mong mỏi mọi người nổ lực thực tập như Ngài đã thực tập để rồi đạt ngộ những điều như Ngài đã đạt ngộ. Ngài không nhằm trình bày một thứ triết lý cao siêu chỉ có trên lý thuyết trừu tượng mà không ăn nhập gì đến cuộc đời dẫy đầy khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, học Phật là học những phương pháp thực tập để được làm Phật chứ không phải học “giáo lý” để diễn tả, để trình bày về Đức Phật hay Đạo Phật. Nếu không phải vậy thì Ngài đã không tuyên bố “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vâng, chúng sanh là Phật sẽ thành với điều kiện là phải thực tập những phương pháp do chính Ngài tuyên thuyết. Thực tập một cách cần mẫn, chăm chỉ, không gián đoạn mới mong có kết

Thời cổ đại, người ta lấy lửa bằng cách dùng hai thanh gỗ cọ xát với nhau. Phải cọ xát cho đến khi nào lửa bật ra, lấy lửa được mới nghỉ chứ không thể nghỉ nửa chừng; vì nếu chỉ nghỉ trong chốc lát thôi, thì hai thanh gỗ nguội lại và như vậy không biết đến đời kiếp nào mới lấy được lửa. Cũng vậy, tham sân si của chúng ta cứ liên tục bốc cháy, nếu chúng ta lơ là thì chỉ có làm mồi cho chúng thiêu đốt oan uổng mà thôi.

Là Phật tử, là con Phật đã nguyện nương tựa nơi Ngài, đã nguyện nương tựa với những lời dạy của Ngài, và đã nguyện nương tựa vào đoàn thể đệ tử thanh tịnh của Ngài rồi, chúng ta cần làm ba việc : học hỏi chánh pháp, thực hành chánh pháp, chứng ngộ chánh pháp.

Đó là cách báo đền công ơn hóa độ sâu dày của Phật và đó cũng là cách làm cho chánh pháp thường trú tại thế gian.

TT. Thích Minh Đạt


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/04/2014(Xem: 6934)
Album Nhạc: Nụ Cười, Dòng Nhạc: Thiền Ca Nhạc Sĩ Lê Minh Hiền, Vol. 4
26/04/2014(Xem: 6443)
Lời Ru - Chú Đại Bi Do Ca Sĩ Phi Nhung trình bày
25/04/2014(Xem: 7087)
Nhạc Sĩ Lê Minh Hiền, pháp danh Quảng Minh Đức. Sinh năm 1965 tại làng An Bằng, huyện Phú Vang, Huế. Vượt biển năm 1982 và đến Mỹ định cư từ 1984, sau đó đã lập gia đình với Ca Sĩ Võ Thu Nga và có ba con trai. Năm 2007 quy y thọ ngũ giới với Hoà Thượng Ân Sư Thích Tịnh Từ Tu viện trưởng Tu viện Kim Sơn. Nhạc Sĩ Lê Minh Hiền đã sáng tác và tự thực hiện 4 CD nhạc đời và 2 CD nhạc Phật Ca Thiền Ca. Mỗi ngày nhạc sĩ dành thời gian để đọc, nghe, học từ những bài Pháp thoại của Chư Tôn Đức và ước nguyện dùng âm nhạc để truyền đạt Phật Pháp tới giới trẻ.
23/04/2014(Xem: 8003)
Phật Ca & Thiền Ca 02 Nhạc sĩ Lê Minh Hiền. 01. Nguyện Hương. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 02. Quan Âm Vô Lượng. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Võ Thu Nga 03. Sống. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Gia Huy 04. Tiếng Vọng Trái Tim. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 05. Hoa Thanh Lương. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Phương Trang 06. Nguyện Cho Thế Giới Hòa Bình. Nhạc: Lê Minh Hiền. Họp ca Võ Thu Nga & Cadillac 07. Dòng Sông Êm Đềm. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 08. Ánh Sáng Từ Bi. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Gia Huy 09. Đến Rồi Đi. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Bảo Yến 10. Cảm ơn Thời Gian. Nhạc: Lê Minh Hiền. Ca Sĩ Võ Thu Nga 11. 12 Lời Khấn Nguyện của Quán Thế Âm. Lời TS Thích Tịnh Từ (giọng đọc: Huy Hoàng & Võ Thu Nga)
17/12/2013(Xem: 10865)
Di Đà Sáu chữ nhớ ơn sâu, Công phu ráng luyện giúp thân mình. Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Nam, thật phương Nam Lửa Bính Đinh. Mô, chỉ rõ vật vô hình. A, Tiên Thiên Thận Thủy Bắc Phương Nhâm Quý. Di, giữ bền chặt Tinh Khí Thần. Đà, sắc vàng trùm khắp cả. Phật, thân tịnh ở nơi mình.
17/12/2013(Xem: 11764)
Lục Căn, Lục Trần Nhạc và Lời : Quách Vĩnh-Thiện Cap d'Agde, le 24 juillet 2005 Lục Căn, Lục Trần là Linh Căn của ta, Thể xác ta cấu trúc từ siêu nhiên, Lục Căn, Lục Trần giam trong phiền muộn, Sai khiến Sân, Si, Hỉ, Ái, Dục, Tham.
09/12/2013(Xem: 11350)
Quay Về Nội Tâm Nhạc và LờI : Quách Vĩnh-Thiện Paris, le 3 mars 2004. Tiếng hát : Mỹ Dung.
14/11/2013(Xem: 6072)
Mừng Phật Đản. Bienvenue à la naissance du Bouddha. Paroles et Musique : Quách Vĩnh Thiện. Traduction française : Minh Thiện - Trần Hữu Danh. Chanteuse : Hương Giang. www.thienmusic.com www.youtube.com/thienmusic
03/10/2013(Xem: 22051)
1. TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Nhạc: Võ Tá Hân; thơ: Tuệ Kiên; Họp Ca Nhóm Cadillac 2. QUẢNG ĐỨC MÁI CHÙA CHUNG Nhạc: Nguyễn Tuấn; thơ: Tuệ Kiên; Ca Sĩ Tuyết Mai 3. MỪNG CHU NIÊN 20 NĂM TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Nhạc: Lê Minh Hiền; thơ: Thích Viên Tịnh; Họp Ca Nhóm Tuệ Đăng 4. ĐẠO TRÀNG TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Nhạc: Khánh Hoàng; Thơ: Thích Nhật Tân; Ca Sĩ Thùy Dương 5. CHIẾC CẦU TỪ BI. Nhạc: Khánh Hoàng; thơ: Thanh Phi; Ca Sĩ Bảo Lộc 6. ÁNH HÀO QUANG QUẢNG ĐỨC Nhạc: Võ Tá Hân; Thơ: Lâm Như Tạng. Nhóm Cadillac 7. BÀI TƯỜNG THUẬT ĐẠI LỄ CHU NIÊN 20 NĂM TV QUẢNG ĐỨC Bài của Thích Tịnh Tuệ, giọng đọc: Tường Dinh (Đài Radio FM 97.4) 8. TT THÍCH NGUYÊN TẠNG TRẢ LỜI PHỎNG VẤN Thông Tín Viên VOA Hoa Kỳ, Ngọc Hân thực hiện 9. KIẾN TRÚC CỦA TU VIỆN QUẢNG ĐỨC Bài của TT Nguyên Tạng, giọng đọc: Diễm Hương (VOA, Hoa Kỳ)
28/08/2013(Xem: 10113)
Trăm năm ngó xuống đời hư ảo Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời Yêu thương xin nở nụ cười Vị tha là để lòng người thanh cao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567